Lê Quang Việt (LCST) - Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Cho nên, xét đến cùng, xây dựng nền văn hóa mới là nhằm tạo ra những con người Việt Nam mới thấm nhuần tinh thần dân tộc và những giá trị nhân quyền phổ quát của nhân loại để rồi các thế hệ người Việt Nam sẽ nối tiếp gây dựng và phát triển một nền văn hóa có bản sắc riêng, có khả năng đối thoại, hội nhập với thế giới, trong đó mỗi người dân Việt Nam đều coi sự tôn trọng những chuẩn mực nhân quyền như một phương cách sống.
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”…Tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
Nhân quyền là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Một xã hội muốn được coi là công bằng, dân chủ, văn minh thì trước hết trong xã hội đó phải tôn trọng quyền con người. Quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm.
Xây dựng một văn hóa nhân quyền mục tiêu là đưa những chuẩn mực nhân quyền thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển của đất nước Việt Nam.
Văn hóa nhân quyền chung nhất là một tổng thể phức hợp hệ thống khái niệm liên quan đến nhân quyền được sử dụng chung, chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cho các cộng đồng vừa mang tính chung vừa mang tính đặc thù riêng. Tổng thể khái niệm phức hợp những khái niệm sử dụng chung về nhân quyền đề cập đến rất phong phú gồm các bình diện như: Tăng cường sự tôn trọng quyền con người và tự do cơ bản; Phát triển toàn diện nhân cách và hiểu biết về sự tôn nghiêm của nhân cách; Tăng cường hiểu biết và sự khoan dung, bình đẳng giới, tình hữu nghị của các dân tộc, dân bản xứ, giữa các nhóm nhân chủng, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ; Đảm bảo để mọi công dân đều có khả năng tham gia hiệu quả vào xã hội tự do và dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; Xây dựng và gìn giữ hòa bình; Đẩy mạnh được sự phát triển duy trì được vị trí con người là trung tâm và chính nghĩa trong xã hội…
Xây dựng một văn hóa nhân quyền nhằm đến việc tăng cường tính bất phân chia và phổ biến của con người, đẩy mạnh sự đa dạng và phản đối sự phân biệt đối xử đối với mọi sự khác biệt, bên cạnh đó tăng cường phân tích đến quyền con người bao gồm cả nghèo đói và bất bình đẳng, trao quyền cho xã hội khu vực và cá nhân tự làm rõ quyền con người. Hơn nữa trên cơ sở nguyên tắc về con người bắt nguồn từ tình trạng văn hóa khác nhau, thúc đẩy việc sử dụng các văn bản về quyền con người và các cơ quan liên quan ở mọi cấp từ địa phương đến quốc tế. Trong thực tiễn giáo dục theo mô hình tham gia, nhằm nuôi dưỡng môi trường dạy học tự do, xúc tiến giáo dục quyền con người trong mối liên quan tới cuộc sống hằng ngày.
Mục tiêu mà chương trình thế giới về nhân quyền nhắm đến là bắt tay vào giáo dục quyền con người trên cơ sở văn hóa nhân quyền thế giới, cụ thể là những nguyên tắc cơ bản về quyền con người đã được quốc tế nhất trí. Bài viết cũng cho rằng việc giáo dục quyền con người bao gồm hai hướng, một là từ dưới lên (địa phương), hướng ngược lại từ quốc tế hướng xuống cuộc sống từng cá nhân. Chương trình thế giới về nhân quyền đặc biệt nhấn mạnh tới hiện thực xung quanh vấn đề quyền con người trong xã hội quốc tế và tiêu chuẩn nhân quyền đã được xác lập, nhằm đến mục tiêu làm cho chúng được ý thức hàng ngày và trở thành hiện thực dưới từng con người cụ thể để vận dụng hiệu quả vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày ở từng địa phương.
Việc sáng tạo và xây dựng văn hóa nhân quyền phong phú trên thế giới chính là mục tiêu của giáo dục quyền con người và văn hóa nhân quyền ở đây có thể có hai mặt. Mặt thứ nhất là tính đặc trưng riêng, tính độc đáo của quyền con người thể hiện ở khái niệm về quyền con người khác nhau bắt nguồn từ mỗi vùng đất và con người, là giá trị ưu tiên liên quan đến tính tôn nghiêm của con người, là cách nắm bắt sự vi phạm nhân quyền. Mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền trong thế giới hàng ngày (tính riêng-đặc thù của văn hóa nhân quyền). Mặt thứ hai là tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở tiêu chuẩn đã được nhất trí, xác lập trên trường quốc tế về quyền con người. Mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền thế giới (tính chung-phổ biến của văn hóa nhân quyền). Những điều được thể hiện trong mục tiêu và nguyên tắc của Chương trình thế giới chính là văn hóa nhân quyền thế giới.
Một điều phải nhận thấy là những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người ở Việt Nam chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, gây tổn hại không nhỏ đến niềm tin của nhân dân. Công tác xây dựng môi trường văn hóa trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế. Tình trạng quan liêu, tham nhũng và suy thoái lối sống, đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức, có quyền chưa được ngăn chặn. Nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội và sự lan tràn các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mê tín, dị đoan, thấp kém, lai căng, độc hại. Còn thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác động tích cực và sâu sắc đối với việc giáo dục con người.Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục.
Tôi không khỏi băn khoăn khi đọc một bài viết trên trang báo Dân trí đưa tin : “Một thiếu nữ bị bạo hành dã man giữa Thủ đô”. Hay báo chí Việt Nam vừa qua đưa tin rất nhiều vụ xâm hại tình dục với trẻ em dưới 16 tuổi mà không biết đó là tội phạm. Nhưng các nạn nhân cũng như kẻ gây tội phạm đều bảo không biết đó là vi phạm quyền con người và ngay cả các viên chức công an cũng không nắm vững các nguyên tắc chữa trị con người, họ đã dùng súng bắn vào người dân như tại Bình Phước vừa qua, trưởng công an đã bắn vào dân và người dân cũng sẵn sàng dùng xe tải, xe con, xe máy… húc vào công an mỗi khi vi phạm trên đường bị truy bắt.
Tất nhiên trên sự đồng thuận về các giá trị phổ quát, nhưng mỗi quốc gia với những thách thức riêng của mình nên ưu tiên các mục tiêu trước sau nhưng căn bản vẫn là tôn trọng con người nhằm thỏa mãn các khát vọng chính đáng diễn ra trong trật tự với các tổ chức xã hội dân sự thì luôn luôn được hoan nghênh và trân trọng!
Giải pháp nào cho tương lai?
Ngày nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa cũng như sự phát triển nhảy vọt của các phương tiện thông tin, đặc biệt là Internet, giới trẻ có thể tiếp nhận nhanh chóng các trào lưu văn hóa cũng như cách sống, cách ứng xử và cả những phong tục đã trở thành nếp sống của giới trẻ ở nhiều nước. Có thể nói giáo dục nhân quyền là nền tảng đồng thời là một trụ cột chính của phát triển con người và cũng là một mục tiêu cơ bản trong các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Giáo dục là một quyền con người cơ bản, hướng tới phát triển đầy đủ nhân cách con người, thúc đẩy sự tôn trọng tất cả các quyền và tự do cơ bản, cũng như tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các quốc gia. Mục tiêu đặt ra là các công dân Việt Nam phải được trang bị kiến thức để điều chỉnh hành vi ứng xử chính bản thân cũng như hướng tới cộng đồng. Ngay từ gia đình phải giải quyết ngay các vấn đề bất bình đẳng, nạn bạo lực gia đình, tệ phân biệt đối xử nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền và an ninh cho con người. Sự phổ biến nhân quyền giúp mọi người tôn trọng, không phân biệt đối xử với các sắc dân, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, người lớn tuổi, dân tộc thiểu số, vấn đề tình dục, và người di cư.
Vi phạm nhân quyền một phần nguyên nhân là do trình độ thấp, chính là hậu quả của nội dung đào tạo không phù hợp và chất lượng kém. Giáo dục chất lượng cao là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trong quá trình thực thi và duy trì nhân quyền. Tôi muốn đề cập đến thách thức của quốc gia này là phải cải thiện chất lượng giáo dục, đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng và nhu người dân. Giáo dục để phát triển con người cũng như phục vụ sự phát triển của quốc gia. Có như vậy mới đảm bảo được Việt Nam có tiếng nói và vị trí đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Tăng cường thúc đẩy đối thoại giữa các thành phần khác nhau của xã hội và mở rộng sự tham gia của công chúng trong sự phát triển của chính sách nhân quyền. Chính các công dân là động lực quan trọng để xác định các ưu tiên nhân quyền trong nước và thiết lập các mục tiêu ràng buộc theo thời gian và các chương trình hầu đáp ứng chún Xác định đường hướng rõ ràng qua kế hoạch nhân quyền quốc gia, tất yếu sẽ dẫn theo ngay tức khắc bộ mặt văn minh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong bài viết này, tôi xin nhấn mạnh để xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trước hết phải bắt đầu từ văn hóa chính trị. Những nỗ lực nhằm phát triển các yếu tố khác trong hệ thống chỉ có ý nghĩa thực sự khi có một văn hóa chính trị lành mạnh. Một nền văn hóa lành mạnh chỉ có thể khi được đặt trong một hệ thống xã hội lành mạnh. Trong đó,phải xây dựng được những người lãnh đạo, với tấm gương sáng về nhân cách và trí tuệ là nhân tố quan trọng cho việc định hướng dân tộc trên con đường phát triển, xây dựng một môi trường văn hóa để nuôi dưỡng cho những giá trị dân tộc. Xây dựng nền văn hóa nhân quyền không thể tách rời với xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, giáo dục, xây dựng nền tảng đạo đức dân tộc và tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc. Chỉ có như vậy, nền văn hóa nhân quyền Việt Nam mới hình thành nên những thế hệ người Việt Nam có khát vọng, lý tưởng, trung thực, sáng tạo, nối tiếp nhau phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện đại, hòa nhịp với dòng chảy chung của nhân loại, là động lực mạnh mẽ cho công cuộc hiện đại hóa đất nước.
Hà Nội, ngày 23 tháng 10 năm 2012
Lê Quang Việt
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét