Giới Thiệu

Blog Luật của Sự Thật là một trang blog đăng tải các tin tức bài vỡ liên quan đến những sự kiện bất công, lạm dụng luật pháp hiện đang xảy ra tại Việt Nam.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 1

Xin nhấn vào đây để đọc tập 1 về quyền biểu tình.

Chân dung ông Nguyễn Đức Kiên

Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 2

Xin nhấn vào đây để đọc tập 2 về quyền hội họp, lập hội, lập đảng.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 3

Xin nhấn vào đây để đọc tập 3 về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Hiện Hành. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Hiện Hành. Hiển thị tất cả bài đăng

29/6/13

Cẩm Nang Luật 4 cho Bạn và Tôi - Dành cho Cư Dân Mạng

LCST xin được giới thiệu cùng các bạn Cẩm Nang Luật cho Bạn và Tôi tập 4, dành cho Cư Dân Mạng, do Luật của Sự Thật hợp tác cùng với Luật sư Nguyễn Thành thực hiện và xuất bản. Cẩm Nang này được xuất bản nhân dịp hàng loạt các bloggers, facebookers bị trù dập, bắt bớ và bỏ tù chỉ vì họ dám lên tiếng bày tỏ chính kiến và lý tưởng yêu nước của mình qua những dòng chữ trên mạng. Với niềm hy vọng có thể giúp các bạn ít nhiều hiểu thêm được các quyền lợi của mình, mà chính Hiến Pháp và các Bộ Luật Việt Nam qui định, chúng tôi xin được trình bày một số vấn đề mà hiện nay dân cư mạng đang rất quan tâm, qua dạng hỏi đáp. Xin mời quý bạn đón xem.
 
CẨM NANG 4
DÀNH CHO CƯ DÂN MẠNG

Luật sư Nguyễn Thành

Trước khi đọc cẩm nang ngắn này, xin bạn lưu ý rằng nó được viết dựa trên những văn bản pháp luật đang có hiệu lực vào ngày 29-6-2013.
Câu 1. Tôi có một blog / facebook cá nhân, vậy tôi có cần phải lưu ý những văn bản pháp luật nào có liên quan không?
Trước hết, bạn cần lưu ý rằng một vấn đề pháp luật có thể được điều chỉnh bởi một hệ thống các văn bản pháp luật từ Hiến pháp, cho tới luật, nghị định, thông tư,... Tuy nhiên, khi có một số văn bản đặc thù quy định về vấn đề đó, không có nghĩa là các văn bản khác không có liên quan. Ví dụ, chúng ta có một nghị định quy định trực tiếp đến blog, nhưng bản thân việc bạn viết blog còn liên quan đến quyền tự do ngôn luận của bạn được thừa nhận tại Hiến pháp.
Chúng tôi khuyến nghị bạn quan tâm đến một số văn bản sau đây:
1. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001.
2. Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 và Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự số 37/2009/QH12. Đặc biệt lưu ý các điều sau:
- Điều 87. Tội phá hoại chính sách đoàn kết
- Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Điều 121: Tội làm nhục người khác
- Điều 122: Tội vu khống
- Điều 226: Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet.
- Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
3. Luật Công nghệ thông tin
4. Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý Internet và thông tin điện tử
5. Nghị định 28/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
7. Nghị định số 73/2010/NĐ-CP của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt lưu ý các điều sau:
6. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc.
7. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.

Câu 2. Blog / facebook có phải là một tài sản không?
Có. Theo quy định tại Điều 163, Bộ luật Dân sự năm 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Ở đây, tài sản của bạn là quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu của blog và quyền sở hữu trí tuệ đối với các nội dung bạn tải lên, kể cả mã nguồn blog (nếu mã nguồn đó là của bạn) và cách bạn sắp xếp các dữ liệu đó. Nói một cách khác, bạn là chủ sở hữu của tài khoản đăng nhập (username và password) và cơ sở dữ liệu của blog (database), cùng với quyền được truy cập và thao tác trên cơ sở dữ liệu đó.
Vì vậy, việc bạn sử dụng blog / facebook của bạn như thế nào, hoàn toàn là quyền của bạn, không ai được xâm phạm, trừ khi bạn cho phép họ làm thế.
Câu 3. Tôi có một blog cá nhân nhưng chạy trên tên miền riêng (www.abc.com). Liệu tôi có phải đăng ký với cơ quan nhà nước nào không?
Trường hợp bạn sử dụng tên miền quốc gia .vn thì bạn không cần quan tâm đến nội dung sau đây. Lý do là có thể là bạn đã phải khai báo đầy đủ thông tin cá nhân khi đăng ký tên trên miền đó rồi.
Nhưng nếu bạn sử dụng hay dùng các miền khác như .com, .net, .org, .asia,... thì bạn cần lưu ý đến một số quy định về thông báo tên miền.
Tại khoản 2, khoản 3 điều 23 Luật Công nghệ thông tin quy định như sau:
“2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam ".vn" khi thiết lập trang thông tin điện tử không cần thông báo với Bộ Bưu chính, Viễn thông. Tổ chức, cá nhân khi thiết lập trang thông tin điện tử không sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam ".vn" phải thông báo trên môi trường mạng với Bộ Bưu chính, Viễn thông những thông tin sau đây:
a) Tên tổ chức ghi trong quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép mở văn phòng đại diện; tên cá nhân;
b) Số, ngày cấp, nơi cấp chứng minh thư nhân dân hoặc số, ngày cấp, nơi cấp hộ chiếu của cá nhân;
c) Địa chỉ trụ sở chính của tổ chức hoặc nơi thường trú của cá nhân;
d) Số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử;
đ) Các tên miền đã đăng ký.
3. Tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của các thông tin quy định tại khoản 2 Điều này, khi thay đổi thông tin thì phải thông báo về sự thay đổi đó.”
Việc thông báo phải được tiến hành trên website thongbaotenmien.vn của Trung tâm Internet Việt Nam.

Câu 4. Nếu tôi dùng tên miền quốc tế (.com, .net,...) cho blog của mình mà không thông báo với cơ quan nhà nước thì sao?
Bạn có thể sẽ bị xử phạt, với số tiền từ 2 - 5 triệu đồng.
Điều 11, Nghị định 28/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet quy định như sau:
“Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các hành vi sử dụng tên miền cấp cao khác tên miền “.vn” mà không thông báo với Bộ Thông tin và Truyền thông; khai báo thông tin không chính xác hoặc không cập nhật khi có thay đổi thông tin liên hệ đối với cá nhân đăng ký, sử dụng tên miền “.vn”.”

Câu 5. Tôi có được quyền ghi âm, đăng hình trên blog của tôi không?
Pháp luật không cấm bạn ghi âm, ghi hình để đăng trên blog / facebook. Tuy vậy, bạn cần lưu ý rằng ngoại trừ ở các địa điểm công cộng, việc ghi âm, ghi hình của bạn cần tuân thủ các quy định về Bảo vệ bí mật nhà nước (xem câu 7), quyền cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31 - Bộ luật Dân sự) và quyền bí mật đời tư (Điều 38 - Bộ luật Dân sự). Ngoài ra, cá nhân và tổ chức có quyền thiết lập các quy định riêng để bảo vệ các thông tin của mình (bao gồm cả âm thanh, hình ảnh, dữ liệu khác,...), việc bạn xâm phạm khu vực thuộc sở hữu của họ để ghi âm, ghi hình có thể khiến bạn phải bồi thường một khoản tiền lớn cùng với án tù nhiều năm, tùy từng vụ việc cụ thể.
Rất tiếc, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quyền cá nhân đối với hình ảnh và quyền bí mật đời tư nên cách giải quyết phụ thuộc vào quan điểm của tòa án đối với từng vụ việc.

Câu 6. Tôi ghi âm, ghi hình được một cảnh vi phạm pháp luật của nhân viên nhà nước khi họ đang thi hành công vụ, nếu đăng lên blog thì tôi có gặp vấn đề rắc rối pháp lý nào không?
Có thể có. Bạn cần lưu ý các quy định pháp luật đã nêu tại phần trả lời câu hỏi số 5.
Trường hợp bạn ghi âm, ghi hình ở khu vực cấm có chứa bí mật nhà nước, bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với hành vi “quay phim, chụp ảnh, vẽ sơ đồ ở khu vực cấm” theo Điều 25, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Số tiền bị xử phạt có thể từ 500.000 đ đến 2.000.000đ.
Tuy nhiên, nếu bạn ghi âm, ghi hình các hành vi vi phạm pháp luật của công an, cán bộ, công chức nhà nước không nằm trong các khu vực cấm, ví dụ như ở các địa điểm công cộng, ngoài đường hay cơ quan nhà nước thông thường,... thì bạn hoàn toàn không phải chịu một rủi ro pháp lý nào cả. Trên thực tế, số lượng các khu vực cấm rất ít, do đó, phạm vi để bạn thực hiện quyền ghi âm, ghi hình rất rộng.
Câu 7. Tôi là sinh viên, nếu tôi viết bài phê phán nhà trường hoặc chính quyền, tôi có thể bị đuổi học không?
Không. Bạn chỉ bị đuổi học hoặc kỷ luật theo các văn bản về Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng sau đây:
1. Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Thông tư số 57/2012/TT-BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy, ban hành kèm theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BGDĐT ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. “Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hình thức vừa làm vừa học” ban hành kèm theo Quyết định số 36/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 28 tháng 6 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Theo đó, bạn chỉ bị đuổi học khi kết quả học tập của bạn không đạt yêu cầu hoặc bạn vi phạm điều cấm về thi hộ - tức nhờ người khác thi hộ. Không có điều gì liên quan đến việc bạn viết blog phê phán nhà trường hoặc chính quyền.
Bên cạnh đó, hành vi viết blog của bạn là hành vi độc lập của cá nhân, dựa trên quyền tự do ngôn luận được Hiến pháp bảo vệ, nhà trường hoàn toàn không được pháp luật trao quyền để hạn chế quyền tự do ngôn luận của bạn.
Nhà trường chỉ có thể can thiệp bằng cách khởi kiện bạn ra tòa án dân sự khi họ cho rằng bài viết phê phán nhà trường của bạn đã gây thiệt hại về uy tín hoặc vật chất cho nhà trường, theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Câu 8. Tôi là sinh viên, nhà trường có quyền yêu cầu tôi gỡ bài viết trên blog / facebook của mình không?
Không. Lý do tương tự như phần trả lời cho câu hỏi trên.
 
Câu 9. Tôi có được ghi hình ở khu vực có cắm biển “Cấm quay phim, chụp ảnh” không?
Đối với vấn đề này, bạn cần quan tâm đến các văn bản sau đây:
1. Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Bảo vệ bí mật nhà nước.
2. Nghị định số 33/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xác định địa điểm cấm, khu vực cấm.
4. Thông tư số 12/2002/TT-BCA(A11) của Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Nghị định số 33/2002/NĐ-CP.
5. Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về các địa điểm cấm cụ thể trên địa bàn.
Theo đó, các cơ quan nhà nước chỉ có quyền đặt biển cấm tại các cơ sở, địa điểm chứa bí mật nhà nước, bao gồm các cơ sở quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới, kho dự trữ chiến lược quốc gia và một số địa điểm khác (bao gồm cả một số địa điểm tạm thời trong tình huống nghiêm trọng). Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an và Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền ra quyết định về các khu vực cấm cụ thể, nhưng không được trái với quy định của các văn bản có hiệu lực cao hơn.
Do vậy, có mấy vấn đề cần lưu ý:
      Khu vực cấm cụ thể phải nằm trong quyết định của cấp có thẩm quyền nhưng không trái với danh sách các khu vực cấm trong Quyết định 160 của Thủ tướng Chính phủ. Không ai được quyền cắm biển cấm ngoài các khu vực trong danh sách này.
      Khu vực cấm, dù đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, phải đặt biển cấm theo quy định của Thông tư 12 của Bộ Công an. Nếu không có biển cấm thì người dân không có nghĩa vụ phải chấp hành.
      Tuy vậy, các quy định này chỉ có phạm vi áp dụng đối với các cơ sở chứa bí mật nhà nước và các địa điểm công cộng trong tình huống nghiêm trọng. Đối với các cơ sở thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu của pháp nhân,... thì họ có toàn quyền đặt ra quy định cấm trong phạm vi khu vực mà họ sở hữu. Kiến trúc cảnh quan của các cơ sở này thuộc về cảnh quan công cộng, nên bất kỳ ai cũng có quyền ghi hình từ bên ngoài diện tích của các cơ sở đó.
Trường hợp bạn ghi hình tại khu vực cấm, bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính (xem thêm Câu 6).
Câu 10. Công an có quyền tịch thu máy ảnh và máy vi tính của tôi không?
Không ai có quyền tịch thu tài sản của bạn, trừ trường hợp bạn dùng nó để thực hiện các hành vi vi phạm hành chính hoặc phạm tội hình sự.
Điều 4, Nghị định 73/2010/NĐ-CP quy định rõ tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là hình thức xử phạt bổ sung, ngoài hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền.
Điều 76, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định rõ công cụ, phương tiện phạm tội thì bị tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc bị tiêu hủy.
Như vậy, khi bạn không dùng máy ảnh, máy vi tính vào các hành vi vi phạm hành chính hoặc hành vi phạm tội (dù rằng các hành vi này có thể bất hợp lý và vi phạm quyền con người) thì không ai có quyền tịch thu của bạn.
Câu 11. Tôi có thể đến tòa án để đưa tin không?
Có. Trừ một số trường hợp đặc biệt, về cơ bản các vụ án đều phải xét xử công khai và mọi người đều có quyền tham dự, kể cả cho mục đích đưa tin. Trước khi đưa vụ án ra xét xử, tòa án thụ lý phải nói rõ việc xét xử là công khai hay xử kín.
Điều 18. Xét xử công khai (Bộ luật Tố tụng hình sự 2003)
Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều 15. Xét xử công khai (Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004)
1. Việc xét xử vụ án dân sự của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều 17. Xét xử công khai (Luật Tố tụng hành chính 2010)
Việc xét xử vụ án hành chính được tiến hành công khai. Trường hợp cần giữ bí mật nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.

Câu 12. Tôi có quyền giữ bí mật danh tính, tài khoản đăng nhập và nguồn tin của mình khi viết bài trên blog / facebook không?
Có. Danh tính (hay thông tin nhân thân của bạn) là quyền nhân thân của bạn được quy định trong Bộ luật Dân sự. Bạn có toàn quyền quyết định việc sử dụng nó ra sao khi viết blog. Nguồn tin của bạn và tài khoản đăng nhập là thông tin riêng của bạn, quyền của bạn đối với thông tin này là một quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, không ai có quyền buộc bạn phải cung cấp tài sản của bạn cho người khác.
Bạn không có nghĩa vụ phải khai báo với bất kỳ ai (kể cả cơ quan công an) về việc bạn có phải là chủ sở hữu blog hay là tác giả của bất kỳ bài viết nào hay có liên quan đến bất kỳ nguồn tin nào. Trong mọi trường hợp, những người đưa ra cáo buộc có nghĩa vụ phải chứng minh sự liên quan của bạn đối với blog, chứ bạn không có nghĩa vụ phải chứng minh là mình vô tội hoặc không có liên quan.
Câu 13. Nếu tôi bị bắt, công an có quyền bắt tôi khai báo mật khẩu của các tài khoản online của tôi không? 
Bất kỳ ai, kể cả công an, cũng chỉ có quyền đề nghị bạn khai báo mật khẩu các tài khoản của bạn chứ không có quyền bắt ép bạn phải khai báo. Việc bạn đồng ý hay không là quyền của bạn. Mời bạn xem thêm câu 10.
Câu 14. Tôi có phải chịu trách nhiệm về những bình luận (comment) của người khác trên blog / facebook của tôi không?
Pháp luật Việt Nam chưa từng có quy định cụ thể nào về trường hợp này. Tuy vậy, nội dung bình luận của người khác thuộc về quyền tự do ngôn luận của người bình luận theo quy định tại điều 69 của Hiến pháp 1992 và họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền này của mình. Chủ sở hữu blog / facebook không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về phát ngôn của người khác, ngay cả khi phát ngôn đó được đăng trên blog của mình.
Để có một so sánh gần gũi, chúng ta có thể coi blog là nhà mình, và người bình luận là khách. Bạn mở cửa cho khách ra vào tự do ở nhà mình không có nghĩa là bạn phải chịu trách nhiệm về những phát ngôn của họ trong nhà của bạn.
Câu 15. Nếu tôi viết bài phê bình nhà nước, tôi có thể bị cáo buộc những hành vi nào?
Hành vi phê phán chính quyền nằm trong quyền tự do ngôn luận của bạn được quy định tại điều 69 Hiến pháp 1992:
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Quyền tự do ngôn luận của bạn cũng được thừa nhận tại Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và các điều ước quốc tế khác về nhân quyền mà Việt Nam tham gia.
Điều 19 - Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.

Do vậy, xét về mặt Hiến pháp quốc gia và pháp luật quốc tế, bạn có quyền được tự do phát biểu về mọi vấn đề, với mọi thái độ, miễn là phát biểu của bạn không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Đây là quy định mang tính phổ quát trên toàn thế giới và được chính Việt Nam, với tư cách là một thành viên Liên hợp quốc - tham gia và ký kết. Theo đó, phê phán chính quyền không nằm trong phạm vi hạn chế quyền tự do ngôn luận. Nếu bạn xâm phạm đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác, tất cả rủi ro bạn phải chấp nhận là nguy cơ bị cá nhân, tổ chức đó khởi kiện ra tòa án dân sự để yêu cầu bạn xin lỗi và bồi thường cho họ.
Tuy vậy, ở Việt Nam, bạn có thể chịu nhiều rủi ro hơn. Bạn có thể bị khép vào các tội được nêu trong câu hỏi số 1 của cẩm nang này, đặc biệt là hai điều sau của Bộ luật Hình sự:
      Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
      Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Hoặc bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 73/2010/NĐ-CP:
      Điểm i, khoản 3, điều 7. Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mức phạt dao động từ 1.000.000 đ đến 2.000.000 đ.
Đây là những cáo buộc mà chính quyền Việt Nam hiện nay thường khép cho những người bày tỏ ý kiến bất đồng với nhà nước, bao gồm cả các bloggers. Hình phạt có thể lên đến 20 năm tù cho điều 88 và 7 năm tù cho điều 258 Bộ luật Hình sự. Bạn có thể tìm hiểu thêm thông qua các vụ án Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Lê Nguyễn Hương Trà (tức blogger Cô Gái Đồ Long) hay mới đây nhất Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.

Câu 16. Nếu tôi viết bài phê bình một cá nhân khác, tôi có thể gặp phải những rủi ro pháp lý nào?
Bạn cần lưu ý phê phán cá nhân nhưng dừng lại ở mức độ nhất định để không vướng phải những rủi ro pháp lý. Nếu không, bạn có thể cùng lúc phải chịu hai loại trách nhiệm pháp lý: trách nhiệm hành chính/hình sự và trách nhiệm dân sự.
Về mặt hành chính, bạn có thể bị xử phạt từ 100.000 đ - 200.000 đ với hành vi “có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác” tại điều 7, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
Về mặt hình sự, bạn có thể bị khép vào tội làm nhục người khác tại Điều 121 (với mức án lên tới 3 năm tù) hoặc tội vu khống tại Điều 122 Bộ luật hình sự (với mức án lên tới 7 năm tù).
Về mặt dân sự, nếu người bị hại có yêu cầu, bạn có thể phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại cho họ vì đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ, vốn được bảo vệ bởi điều 37 Bộ luật Dân sự.
Điều 37. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Có ba khoản mà bạn có thể phải bồi thường theo quy định tại điều 611 Bộ luật Dân sự.
Điều 611. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
2. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Câu 17. Nếu tôi phê bình một người khác trên blog nhưng đổi tên của người đó rồi, tôi có gặp rủi ro pháp lý nào nữa không?
Có thể có. Nếu những thông tin bạn nêu ra trong bài viết đủ để khiến người đọc cho rằng bạn đang ám chỉ đến một cá nhân, tổ chức nào đó (không cần thiết phải trùng khớp với cá nhân, tổ chức mà bạn đang nhắm đến) và gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức đó, bên bị hại có thể khởi kiện bạn ra tòa yêu cầu bạn xin lỗi và bồi thường, tương tự như trường hợp bạn không đổi tên của họ trong bài viết.
Đây là thực tế đã xảy ra với trang tin kenh14.vn, liên quan đến một bài viết họ ám chỉ ca sĩ, diễn viên Lê Ngân Khánh.

Câu 18. Vượt tường lửa để vào các trang mạng bị chặn có vi phạm pháp luật không?
Chỉ khi nào nhà nước ban hành và công bố một văn bản quy định người dân không được phép truy cập vào một trạng mạng nào đó, thì việc bạn cố truy cập mới trở thành vi phạm pháp luật. Hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có một văn bản như vậy, do vậy việc bạn truy cập vào bất kỳ trang mạng nào (dù là vượt tường lửa hay không), đều không phải là vi phạm pháp luật.

Câu 19. Các công ty nước ngoài như Google, Facebook, Wordpress có bắt buộc phải cung cấp dữ liệu cá nhân của tôi cho nhà nước không?
Pháp luật Việt Nam không chi phối được tới các công ty có quốc tịch nước ngoài, trừ khi họ cung cấp dịch vụ cho bạn thông qua chi nhánh ở Việt Nam. Trường hợp một công ty nước ngoài có chi nhánh ở Việt Nam nhưng chi nhánh này không liên quan đến dịch vụ bạn sử dụng, hoặc có liên quan đến dịch vụ bạn sử dụng nhưng không quản lý dữ liệu cá nhân của bạn, thì pháp luật Việt Nam cũng không thể điều chỉnh tới. Do vậy, họ không bị bắt buộc phải cung cấp dữ liệu cá nhân của bạn cho nhà nước.

Hoàng Công Minh: Những Điều Luật phi pháp


Các chế độ độc tài vốn vẫn thường sử dụng những đạo luật phản động để cai trị đất nước. Đó là những đạo luật phi dân chủ, đi ngược lại tinh thần nhân bản, nhằm chủ trương bảo vệ chế độ độc tài phi pháp. Các điều luật được quy định bằng ý chí chủ quan tùy tiện của kẻ cầm quyền và một quy trình lập pháp phản dân chủ. Điều kiện để hợp thức hóa cho những luật lệ ngược đời đó là một Quốc Hội bù nhìn do chế độ độc tài dựng nên. Thứ luật lệ đó giữ vững quyền lực cho kẻ cầm quyền và gây nên tiếng kêu gào thảm thiết của những người dân lương thiện nơi chốn ngục tù.




Một đạo luật được làm ra bởi Quốc Hội bù nhìn thì không có sự khả tín, nó vốn không phải là ý chí của nhân dân, vì thế không thể đại diện cho công lý và đại chúng. Do đó, việc căn cứ vào những luật này sẽ bất lợi cho người dân, vì nó không bảo vệ quyền con người mà chỉ đề cao vai trò của kẻ cầm quyền. Trong những đạo luật phi lý ắt hẳn sẽ có những điều khoản phi lý, đó là điều không thể tránh khỏi. Đây là những mắt xích quan trọng dệt nên tấm lưới bùng nhùng, nhằm siết chặt quyền tự do dân chủ của con người.

Trong một xã hội tự do, thì những người có quan điểm khác với nhà nước thì không thể bị ngồi tù, vì đơn giản đó không phải là tội phạm. Tự do tư tưởng và quan điểm là quyền căn bản của con người đã được công ước quốc tế thừa nhận. Những người có quan điểm chính trị hoặc tôn giáo khác với nhà cầm quyền ở Việt Nam đã bị coi là những tội phạm hình sự và bị bỏ tù. Nhà nước cho rằng họ là những đối tượng đe dọa đến nền an ninh quốc gia. Phần lớn những tù nhân lương tâm này bị gán ghép vào những điều khoản phản động khét tiếng trong “Bộ Luật Hình sự” của nhà nước Việt Nam.

Rất nhiều những người hoạt động yêu nước và bảo vệ quyền tự do dân chủ đã bị ngồi tù với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” tại điều 79. Đơn giản là những người này đã thực thi quyền lập hội của mình. Nhưng điều 79 này lại quy định rằng:

“Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị phạt như sau:
1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình;

2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.”.

Rõ ràng đây là điều khoản cực kỳ phản động, nó vi phạm nghiêm trọng quyền tự do lập hội, lập đảng của người dân. Mục tiêu của điều khoản này là để bảo vệ một chế độ độc tài đang mạo danh là “chính quyền nhân dân”.

Một điều luật khét tiếng nữa mà người dân vẫn ví nó như hai chiếc còng số 8, khóa cả tay chân con người, đó là điều 88 Bộ Luật Hình sự. Điều này trói buộc tư tưởng con người, cấm đoán quyền tự do ngôn luận. Nhà nước Cộng Sản gọi đó là “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ý nghĩa của điều luật này là mọi người dân Việt Nam, dù có miệng không được nói, biết chữ cũng không được viết những gì trái với quan điểm của nhà nước. Nguyên văn điều luật như sau:

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

A) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

B) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;

C) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.”.

Mới nghe qua thì chúng ta liên tưởng ngay tới tội “Phạm thượng” trong xã hội phong kiến xưa. Bây giờ là thế kỷ 21, xin miễn bình luận thêm.

Và một điều luật nữa mới nghe qua có vẻ là nhân đạo, nhưng thực tế vô cùng phản động, xin trích nguyên văn:

“Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Những điều luật phi pháp này được sinh ra là để bảo vệ chế độ độc tài toàn trị, đàn áp các quyền tự do dân chủ của nhân dân.

19/5/13

Thuê xã hội đen đòi nợ thuê

luatsuthuc
LS: NGUYỄN ĐẮC THỰC


Thuê xã hội đen đòi nợ thuê - Cần tư vấn gấp ạ

Tôi có vay của một người bạn số tiền 62 triệu đồng với lãi suất là 2500đ/triệu/ngày từ tháng 7/2012. Từ đó đến tháng 3/2013 tôi vẫn trả lãi hàng tháng. Đến nay tôi đang khó khăn về kinh tế nên tôi đã thoả thoạn với người cho vay là tôi chỉ có thể trả lãi theo lãi suất ngân hàng, nhung người đó không đồng ý. Tôi xin nói thêm là trong giấy vay nợ, do tin tưởng bạn bè nên tôi chỉ ghi tên người vay (là tôi) còn người cho vay thi tôi không ghi. Nay họ thấy tôi không trả được lãi suất cao như trước nên họ đòi tiền tôi và có thuê một nhóm côn đồ, chuyên đi đòi nợ thuê tại địa phương để đến nhà và cơ quan tôi đòi nợ. Người cho vay đã tự ý ghi tên của một trong những đối tượng đòi nợ đó vào giấy vay tiền. Sau đó nhóm côn đồ đó đã đến nhà tôi và cơ quan tôi đòi nợ, chúng còn doạ dẫm tôi. Hiện nay, tôi đã ghi âm được các cuộc gọi của anh trai, vợ và của người cho tôi vay tiền. Nội dung các cuộc gọi đều thể hiện việc người đó có thuê nhóm côn đồ trên đi đòi nợ, với mức thù lao là 1/3 số tiền tôi nợ (nếu đòi được tiền của tôi).

Vậy tôi xin hỏi:

- trường hợp của tôi nên xử lý như thế nào? (hiện tại tôi không có khả năng trả tiền ngay cho họ được). Tôi có thể làm đơn gửi cơ quan công an để đảm bảo an toàn cho tôi và gia đình hay không.

- Theo như tôi trình bày ở trên thì khi cơ quan điều tra thì tôi có thể đổi tên người vay từ nhóm côn đồ sang tên người cho tôi vay được không. Và lãi suất nên trả bây giờ là bao nhiêu.

- Nếu nhóm côn đồ đến đòi nợ tôi và hành hung tôi thì người cho tôi vay (tức là bạn của tôi) có phải chịu trách nhiệm gì không?

Đây là việc rất quan trọng đối với tôi, mong luật sư tư vấn giúp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Re: Thuê xã hội đen đòi nợ thuê - Cần tư vấn gấp ạ

Chào bạn.

Trường hợp của bạn nên làm đơn nhờ công an can thiệp, bạn nên trình bầy cụ thể nội dung sự việc và nhờ công an can thiệp để tránh những hậu quả đáng tiếc do hành vi trái pháp luật của những đối tượng xã hội đen gây ra cho gia đình bạn.

16/5/13

LS Nguyễn An Bình: Thủ tục thành lập viện nghiên cứu khoa học tư nhân trong lĩnh vực y tế

LS_NguyenAnBinh
LS_NguyenAnBinh


Thủ tục thành lập viện nghiên cứu khoa học tư nhân trong lĩnh vực y tế

Em kính chào các anh/bác Luật sư và các bạn:

em có một vấn đề khó khăn mà không biết tìm ở đâu? đó là công ty em đang muốn thành lập một Viện nghiên cứu tư nhân trong lĩnh vực huyết học, em muốn xin tư vấn của các luật sư về thủ tục thành lập, những giấy tờ công ty em phải chuẩn bị, những tổ chức có liên quan cấp chứng nhận hành nghề cho viện em.....công ty em sau khi thành lập viện có quyền cấp chứng chỉ đào tạo cho điều dưỡng và các vị tr khác trong công ty ko?

em mong nhận được lời tư vân từ quý luật sư, em xin chân thành cám ơn ah

Re: thủ tục thành lập viện nghiên cứu khoa học tư nhân trong lĩnh vực y tế

Chào bạn,

Theo quy định hiện hành, tổ chức, cá nhân được thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở. Hồ sơ đăng ký hoạt động của tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ bao gồm:

1. Đơn đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ;

2. Quyết định thành lập, trừ trường hợp cá nhân tự thành lập tổ chức khoa học và công nghệ;

3. Điều lệ tổ chức và hoạt động;

4. Lý lịch khoa học của giám đốc; điều kiện về nhân lực khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật; trụ sở của tổ chức.
 
Mỗi tổ chức khoa học và công nghệ phải có ít nhất 05 người có trình độ đại học trở lên, trong đó có ít nhất 20% có trình độ chuyên môn thuộc một trong các lĩnh vực chủ yếu xin đăng ký hoạt động và ít nhất 40% làm việc theo chế độ chính nhiệm.
 
Tổ chức khoa học và công nghệ không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, ngoài danh sách nhân lực phải có thêm các văn bản sau:

- Đối với nhân lực chính nhiệm:

+ Đơn xin làm việc chính nhiệm lập theo mẫu quy định tại Phụ lục IV kèm theo Thông tư này.

+ Bản sao các văn bằng đào tạo (có chứng thực hợp pháp).

+ Sơ yếu lý lịch có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc trước khi chuyển sang làm việc tại tổ chức khoa học và công nghệ; Trường hợp nhân lực chính nhiệm không phải là công dân Việt Nam thì phải có văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nước mà người đó mang quốc tịch.

Trong trường hợp cần thiết, cơ quan cấp Giấy chứng nhận có quyền yêu cầu xuất trình bản gốc giấy tờ liên quan đến hồ sơ cá nhân đó (ví dụ: quyết định nghỉ hưu, quyết định chuyển công tác, các loại văn bằng, chứng chỉ…).

- Đối với nhân lực kiêm nhiệm:

+ Đơn xin làm việc kiêm nhiệm lập theo mẫu quy định tại Phụ lục V kèm theo Thông tư này.

+ Bản sao các văn bằng đào tạo (có chứng thực hợp pháp).

+ Sơ yếu lý lịch có xác nhận hợp pháp; Trường hợp nhân lực kiêm nhiệm không phải là công dân Việt Nam thì phải có văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nước mà người đó mang quốc tịch.

+ Trường hợp cá nhân đang làm việc chính nhiệm tại một cơ quan, tổ chức: phải có văn bản của thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý đồng ý cho làm việc kiêm nhiệm.

Tổ chức khoa học và công nghệ là viện thì người đứng đầu phải có trình độ tiến sĩ trở lên.
 
Vốn đăng ký ít nhất là 200.000.000 đồng.
 
Trụ sở chính của tổ chức khoa học và công nghệ là viện phải có diện tích tối thiểu 25m2.
 
Tổ chức khoa học và công nghệ, ngoài bản kê khai cơ sở vật chất - kỹ thuật, phải có thêm các văn bản sau đây:

- Cam kết góp vốn (tiền, tài sản...) của từng cá nhân/các bên hợp tác, liên kết góp vốn.

- Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với phần vốn đã cam kết góp.

- Biên bản họp của những người sáng lập/ các bên hợp tác, liên kết thống nhất định giá tài sản, ngoại tệ… quy ra tiền Việt Nam hoặc văn bản chứng nhận giá trị tài sản hợp pháp.

- Trong trường hợp cần thiết, cơ quan cấp Giấy chứng nhận có quyền yêu cầu tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện định giá tài sản và phải có chứng nhận của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đủ điều kiện hoạt động định giá tài sản.
  
Hồ sơ về trụ sở chính phải có một trong các giấy tờ sau:

a) Bản sao giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất, nhà của tổ chức khoa học và công nghệ đối với địa điểm nơi đặt trụ sở chính (có chứng thực hợp pháp).

b) Bản sao hợp đồng thuê, mượn địa điểm làm trụ sở chính kèm theo giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất, nhà của bên cho thuê, mượn (có chứng thực hợp pháp).

Tổ chức khoa học và công nghệ đăng ký hoạt động tại Sở Khoa học và Công nghệ nơi đặt trụ sở chính.

Sau khi thành lập, để có thể đào tạo,  tổ chức khoa học và công nghệ phải được Sở Giáo dục cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động đào tạo.

Trân trọng,

http://thuvienphapluat.vn/

13/5/13

Huyền Trang: Nhiều chính sách mới áp dụng từ ngày 15

Chưa xử phạt đối với người đội mũ bão hiểm giả; Đơn giản hóa thủ tục đăng ký kết hôn với người nước ngoài; Thêm nhiều dịch vụ miễn phí tại Trạm dừng nghỉ đường bộ; Tăng mức bồi dưỡng đối tượng ngăn chặn chặt phá rừng, cháy rừng… là những chính sách mới sẽ có hiệu lực từ ngày 15/5.

Chưa xử phạt người đội mũ bảo hiểm giả

Kể từ ngày 15/5, Theo Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT, người điều khiển, người ngồi trên mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ không đúng quy cách sẽ bị xử phạt.

Vậy đội mũ như thế nào là đúng quy cách?

Theo Thông tư liên tịch 06 quy định: Quai mũ phải đóng khít với cằm; Khi kéo mũ từ sau ra trước hoặc nâng phần trên trước trán rồi kéo ra sau, mũ không được bật ra khỏi đầu.

Tuy nhiên, Thông tư vẫn chưa có quy định cụ thể để phân biệt mũ bảo hiểm giả và chưa có chế tài cụ thể xử phạt đối tượng đội mũ bảo hiểm giả.

Đơn giản hóa thủ tục đăng ký kết hôn với người nước ngoài



Từ ngày 15/5, Hồ sơ đăng ký kết hôn với người nước ngoài không cần phải công chứng, chứng thực bản sao sổ hộ khẩu và giấy tờ chứng minh về nhân thân.

Ngoài ra, thủ tục cũng đơn giản trong việc đi nộp hồ sơ: chỉ cần một trong hai bên đi nộp trực tiếp tại Sở Tư pháp (nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam) hoặc cơ quan đại diện (nếu đăng ký tại cơ quan đại diện).

Thời gian giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam giảm xuống còn 25 ngày kể từ ngày Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí (trước đây là 30 ngày).

Thời gian chờ phỏng vấn cũng giảm xuống còn chậm nhất là 15 ngày, và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn sau khi phỏng vấn chậm nhất 05 ngày làm việc.

Đó là nội dung được quy định tại Nghị định 24/2013/NĐ-CP, có hiệu lực từ 15/5/2013, bãi bỏ Nghị định 68/2002/NĐ-CP và 69/2006/NĐ-CP.  

Thêm nhiều dịch vụ miễn phí tại Trạm dừng nghỉ đường bộ
 

Theo Thông tư 48/2012/TT-BGTVT, bên cạnh các công trình dịch vụ thương mại, công trình bổ trợ, trạm dừng nghỉ đường bộ còn phải có công trình dịch vụ công cộng cung cấp các dịch vụ miễn phí như: bãi đỗ xe, không gian nghỉ ngơi, phòng nghỉ tạm thời cho lái xe, khu vệ sinh, nơi cung cấp thông tin (phải có bản đồ giao thông khu vực, sơ cứu tai nạn giao thông)...


Trạm dừng nghỉ đường bộ được phân thành 4 loại và có diện tích mặt bằng tối thiểu loại 1: 10.000 m2, loại 2 : 5.000 m2, loại 3: 3.000 m2 và loại 4: 1.000 m2.

Thông tư có hiệu lực từ 15/5/2013, thay thế Chương IV Thông tư 24/2010/TT-BGTVT. 
 
Tăng mức bồi dưỡng đối tượng ngăn chặn chặt phá rừng, cháy rừng



Cũng trong ngày 15/5, Thông tư liên tịch 20/2013/TTLT-BNNPTNT-BTC có hiệu lực, quy định mức chi hỗ trợ cho các đối tượng được huy động để ngăn chặn chặt phá rừng trái phép và chữa cháy rừng (bao gồm cả lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm).

Mức chi tối đa cho một người/một ngày bằng ngày công lao động nghề rừng cao nhất ở địa phương (trước đây mức chi là ngày công lao động nghề rừng phổ biến ở địa phương).

Trường hợp lực lượng trực tiếp được huy động hoặc tự nguyện thực hiện nhiệm vụ đột xuất được chi tiền ăn thêm tối đa là 50.000 đồng/ngày/người (Trước đây không có quy định khoản chi này).

Trong quá trình làm nhiệm vụ có xảy ra tai nạn, người tham gia nhiệm vụ đột xuất ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái pháp luật và chữa cháy rừng được thanh toán tiền khám, chữa bệnh theo chế độ hiện hành. Đối tượng không thuộc được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, trong thời gian điều trị, ngoài tiền hỗ trợ khám chữa bệnh, còn được hỗ trợ tối đa 100.000 đồng/ngày/người (trước đây mức hỗ trợ chỉ bằng 20.000 đồng/ngày/người).

Thông tư này bãi bỏ một số quy định tại Thông tư liên tịch 61/2007/TTLT-BNN-BTC.   

Huyền Trang
Nguồn ảnh: Internet

9/5/13

Tư Vấn Pháp Luật: Thế chấp sổ đỏ tại Ngân Hàng

Luật sư Đặng Văn Cường

Hỏi về: Thế chấp sổ đỏ tại Ngân Hàng

Mong các Luật sư góp ý:

Một Doanh nghiệp có giám đốc là ông A đã lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông B đi thế chấp tại Ngân hàng. Giữa ông A và ông B chỉ có giấy chuyển nhượng viết tay có chữ ký của ông B và có xác nhận của UBND xã. Giấy chuyển nhượng được viết từ thang 1/2005.

Ngân hàng đã căn cứ vào giấy chuyển nhượng viết tay và đồng ý ký hợp đồng thế chấp nhận thế chấp của ông A với tài sản là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông B ( ký hợp đồng không có mặt của ông B). Phòng TN&MT huyện cũng đã đăng ký thế chấp cho hợp đồng của ông A với Ngân hàng.

Hỏi:

Ngân hàng chỉ căn cứ vào giấy chuyển nhượng viết tay như trên mà đã nhận thế chấp sổ đỏ như vậy có đúng không? Vi phạm quy định gì không?

Phòng TN&MT đã đăng ký thế chấp cho hợp đồng thế chấp nêu trên có sai phạm gì không?

Về pháp lý giấy chuyển nhượng viết tay nêu trên có hiệu lực pháp luật hay không ( Giấy viết vào tháng 1/2005)

Kính bút !

Re: Hỏi về: Thế chấp sổ đỏ tại Ngân Hàng

Chào bạn!

 Theo quy định của pháp luật thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký thì mới có hiệu lực pháp luật. Nếu hợp dồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập trước ngày 01/7/2004 (ngày có hiệu lực của Luật đất đai năm 2003) và hai bên đã thực tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển nhượng, nếu có tranh chấp thì Tòa án có thể áp dụng quy định tại Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để công nhận hợp đồng...

Theo thông tin bạn nêu thì Hợp đồng chuyển nhượng lập sau ngày có hiệu lực của Luật đất đai và chưa đăng ký sang tên nên chưa có hiệu lực pháp luật. Việc thế chấp căn cứ vào giấy tờ chuyển nhượng nêu trên là chưa đúng thủ tục theo quy định pháp luật.

Nếu vụ việc trên có tranh chấp và Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng trên chưa có hiệu lực pháp luật thì Hợp đồng thế chấp giữa ông B với Ngân hàng vô hiệu và rủi ro thuộc về Ngân hàng.

 

28/4/13

LàmThủ tục nhà đất

lsthachthao
LUẬT SƯ NGUYỄN THẠCH THẢO -
ĐÒAN LUẬT SƯ THÀNH
 PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hỏi Luật Sư về thủ tục làm nhà đất

Mảnh đất nhà em đang sinh sống, ngày trước có mua của chủ cũ rồi, nhưng vì thời điểm 1990 chỉ có làm giấy tay (sang nhượng chỉ có 2 bên gia đình và 1 người làm chứng), bây giờ khi mang hồ sơ tới UBND Phường để làm giấy tờ nhà đất thì người hướng dẫn bảo là không hợp lệ ở tờ giấy mua bán tay, vì người đứng tên mảnh đất lúc bán ( bên A, bố của ông chủ đất hiện tại) hiện tại đã mất và người mua (bên B, mẹ của người đứng tên để làm hồ sơ nhà đất hiện tại) hiện tại bây giờ cũng đã mất, như vậy có phải là đòi hỏi vô lý hay không? Và gia đình đã đứng tên đóng thuế nhà đất hơn 10 năm nay rồi, thì theo như tôi được biết thì khi đã đóng thuế trên 10 năm thì gia đình tôi có quyền đứng tên mảnh đất này đúng không ạ (nghĩa là không cần đến tờ giấy mua bán tay vẫn có thể làm hợp thức hóa nhà đất)? Còn lại thì tất cả các giấy tờ khác đều đã thông qua, chỉ còn khúc mắc ở tờ giấy mua bán tay đã nêu trên, xin Luật sư tư vấn hộ tôi ạ?

Xin chân thành cám ơn

 Re: Hỏi Luật Sư về thủ tục làm nhà đất
       
Chào bạn.

LS Thạch Thảo tư vấn cho bạn như sau:

Theo thư trình bày của bạn thì đất nhà bạn đã có hợp đồng mua bán năm 1990, và sử dụng ổn định từ đó cho đến này. Luật đất đai tại Điều 50 khoản 1 quy định : Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liển với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
......
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
Như vậy, ngoài Giấy chuyển nhượng, bạn cần có đơn xin xác nhận của UBND về thời gian sử dụng đất của bạn, đất không tranh chấp để hoàn tất hồ sơ.

Việc bạn đóng thuế trên 10 năm không phải là căn cứ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì thuế là nghĩa vụ công dân phải nộp cho nhà nước khi họ sử dụng đất,( nếu bạn không phải là chủ sở hữu nhưng là người sử dụng đất thì bạn cũng phải nộp thuế đất).

Trong trường hợp Hộ gia định, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất ( khoản 4 điều 50 Luật đất đai)

Tùy vào tình hình, thời gian sử dụng đất của gia đình bạn mà UBND sẽ có những hướng dẫn cụ thể hơn.

Thân mến.

Source: http://danluat.thuvienphapluat.vn/hoi-luat-su-ve-thu-tuc-lam-nha-dat-91060.aspx

27/4/13

Tư vấn về tội sử dụng xe trộm cắp

lsduongmai
Luật sư: Duơng Văn Mai
Tư vấn về tội sử dụng xe trộm cắp

Em tên Chu Văn Trường, sinh năm 1988, tại Hà Nội có thắc mắc cần được tư vấn về tội danh sử dụng xe trộm cắp.

Năm 2010 em là sinh viên mới ra trường nên khả năng tài chính eo hẹp nên mua xe từ 1 người ko quen biết để sử dụng đi làm, qua giới thiệu nên được biết người này nói đây là xe mất giấy tờ nên mua giá 5 tr đồng xe Dream Việt Nam, qua thời gia sử dụng em có làm 1 cái biển số Hà Nội khác để lắp vào xe mình để sử dụng, tại các của hàng có dịch vụ làm biển số xe. hiện giờ em cũng không biết người bán là ai để đi tìm. em chưa từng có 1 vụ việc gì liên quan tới pháp luật từ trước tới nay cả.

Đến này, vào ngày 22/4/2013 thì em có sẩy ra xô sát trên đường nên bị các đồng chí công an tam rữ xe và điều tra, đến ngày 24/04/2013 thì em được cơ quan công an gọi lên để giải quyết và thông báo với em là đây là xe gian của 1 người nghệ an bị mất, lúc này em rất bàng hoàng và sững sờ. Anh công an có giúp tôi làm bản tường trình và nói trả lại xe cho người bị mất. tại đồn công an các anh công an có nói sẽ giúp em để ko phải ở tội danh tại điều 250 và nói với tôi là viết trong biên bản là tôi nhặt được chiếc biển số hiện tại và lắp vào sử dụng vì thấy tôi là 1 người khai báo thành khẩn và tác phong đứng đắn, và nói về đợi để các anh ấy hội ý với lãnh đạo của đồn CA đó xem có giải quyết cho em để ko phải chuyển lên công an Huyện. để mọi thủ tục gọn nhẹ hơn..., hiện em đang làm cho 1 công ty cổ phần tại HN công việc cũng tương đối ổn định, nên em cũng thấy rất lo sợ.

Vậy cho em hỏi nếu như trường hợp của em như vậy có được áp dụng theo điều luật 250 ( tiêu thụ tài sản trộm cắp) không, vì thực sự em rất lo vì từ trước tới nay đây là lần đầu tiên em va chạm với pháp luật, mong Luật Sư tư vấn giúp em.

Em xin chân thành cảm ơn.

Re: Tư vấn về tội sử dụng xe trộm cắp

Chào em!

Liên quan tới trường hợp của em Điều 250 Bộ luật Hình sự quy định:

Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến  bảy năm:

a) Có tổ chức;

b)  Có tính chất chuyên nghiệp ;

c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;

d)  Thu lợi bất chính lớn;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  năm năm đến mười năm:

a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;

b) Thu lợi bất chính rất lớn.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;

b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

Trường hợp cơ quan công an chứng minh được em biết chiếc xe trên là tài sản do trộm cắp mà có nhưng em vẫn tiêu thụ thì em sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Rất tiếc Luật sư chưa có điều kiện trao đổi trực tiếp với em nên chưa thể tư vấn chi tiết hơn được. Nếu còn vướng mắc em có thể hỏi tiếp hoặc liên hệ với Luật sư để được tư vấn.

Luật sư: Duơng Văn Mai

http://danluat.thuvienphapluat.vn/tu-van-ve-toi-su-dung-xe-trom-cap-91403.aspx#257738

 

Bà Bùi Hằng kiện Chủ tịch Hà Nội

Bà Bùi Thị Minh Hằng
Bà Bùi Thị Minh Hằng đã tham gia
nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc
Bà Bùi Thị Minh Hằng cho biết tòa án Hà Nội đã thụ lý đơn khởi kiện của bà đối với ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội.

Bà Hằng, còn được gọi là Bùi Hằng, là người tham gia nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội từ năm 2011.

Khi bị tạm giam ở cơ sở Thanh Hà hồi tháng Tư năm 2012, bà đã có ý định kiện Quyết định hành chính số 5225 vào cuối năm 2011 của UBND Hà Nội về áp dụng biện pháp đưa bà Bùi Hằng vào 'cơ sở giáo dục'.

Nội dung đơn kiện nói quyết định câu lưu, cưỡng bức giáo dục của Ủy ban nhân dân thành phố đối với bà Hằng là "hoàn toàn trái với pháp luật" và đưa ra các yêu cầu hủy bỏ quyết định mà người khởi kiện cho là sai trái.

Đến ngày 16/5/2012, bà Hằng gửi đơn kiện chính thức lên Tòa án Nhân dân nhưng cho đến cuối năm 2012 thì vẫn không nhận được phản hồi.

Trả lời phỏng vấn BBC tiếng Việt hôm 26/4, bà Hằng cáo buộc là đã bị gây "nhiều khó khăn."

'Buộc phải xử'

Tòa án thụ lý đơn kiện Chủ tịch Hà Nội

Bà Bùi Thị Minh Hằng cho biết tòa án Hà Nội đã thụ lý đơn khởi kiện của bà đối với ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND thành phố.

Trong tháng 12/2012, đơn đã được bà Hằng nộp trực tiếp lên tòa án này tại Hà Nội, nhưng sau đó vẫn không có phản hồi gì.

"Tôi đã phải in khẩu hiệu, cầm băng-rôn đứng trước Tòa án Nhân dân Hà Nội," bà Hằng nói.

Sau đó, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã gọi bà Hằng lên nộp án phí nhưng theo bà, trên đường đi nộp án phí, bà đã bị một lực lượng công an khoảng một chục người bám theo sách nhiễu.
Tuy nhiên bà cũng cho rằng việc tòa án thụ lý đơn khởi kiện của bà, cho thấy "tòa án buộc lòng [sẽ phải] đưa vụ án ra xét xử".

Bà Bùi Thị Minh Hằng là người tích cực tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hồi giữa năm ngoái.

Chính quyền Hà Nội đã đưa bà vào trại cải tạo Thanh Hà mà không thông qua bất kỳ hình thức xét xử nào với lý do bà ‘gây rối trật tự công cộng’.

Hiện chưa biết tiến trình vụ kiện sẽ như thế nào.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/04/130426_buihang_nguyenthethao.shtml

17/4/13

Khởi tố Công an để xảy ra án mạng?

Có lẽ, là người dân nhưng chỉ những người cần đến sự trợ giúp của Công an mới thấy được thái độ thờ ơ lảnh đạm của một bộ phận không nhỏ cán bộ công an mang trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự, đêm lại bình yên cho nhân dân.

Khi bạn rơi vào tình huống nguy hiểm, có nguy cơ mất mạng; hoặc bạn chứng kiến một vụ ẩu đả, bạn gọi công an; và sau bao lâu thì họ mới đến? Có thể rất lâu, hoặc không bao giờ!

Tại sao như vậy? Không ít người cho rằng, công an chỉ đến khi họ có lợi lộc gì đó, hoặc họ chỉ đến khi mọi chuyện đã xảy ra. Đến khi mọi chuyện đã xong, vậy thì chỉ có trách nhiệm “giải quyết hậu quả” chứ không thể “ngăn chặn kịp thời hậu quả”.

Chị Hằng và Khuyến yêu nhau, sau thời gian tìm hiểu, chị Hằng quyết định chia tay nhưng Khuyến không chịu. Khuyến thường xuyên dọa giết chị Hằng, có các hành vi như mang xăng định đốt phòng trọ, hành hung chị Hằng, dùng kéo cắt quần áo, thường xuyên theo dõi trước công ty, chặn đầu xe, chửi bới… đã khiến chị Hằng thật sự lo sợ rằng Khuyến sẽ giết mình. Nhiều lần trình báo công an, nhưng sự việc vẫn không thay đổi. Hậu quả, ngày 13/4/2013, Khuyến giết chết chị Hằng ngay sau khi chị Hằng đến trình báo Công an một phường của Q.Bình Thạnh.

Trước đó, ngày 27/02/2011, cái chết tức tưởi và đau đớn của một cháu bé - con gái của vợ chồng GS-TS Vũ Đình Huy trước bàn tay tội ác của Nguyễn Đăng Thành.
Cháu bé bị Thành, sinh viên tại trường nơi GS-TS Huy dạy học, yêu đơn phương và có nhiều hành động hung bạo, săn đuổi, tỏ tình, thậm chí ngăn cản việc đi lại, quan hệ bạn bè hay sinh hoạt bình thường của cháu. Mặc dù gia đình GS-TS Huy đã phải di chuyển chỗ ở nhưng Thành vẫn xuất hiện và lặp lại hành động thô bạo với cháu như trước, rồi còn dùng những lời lẽ đe dọa giết chết cháu ngay tại nhà hoặc tại công ty, giết cả những người nào muốn đến với cháu nữa. GS-TS Huy đã phải nhiều lần gọi điện thoại cho cảnh sát 113 nhưng không nhận được sự hỗ trợ can thiệp.

Qua hai sự việc đau lòng trong nhiều sự việc thực tế hiện nay, để nói lên rằng ở đâu đó ngành công an còn quá thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với an toàn tính mạng, sự bình yên của nhân dân. Cả hai trường hợp đều có dấu hiệu tội đe dọa giết người theo quy định của Điều 103 BLHS; nhưng hoặc họ vô cảm, hoặc thiếu trách nhiệm, hoặc vì lý do chuyên môn nghiệp vụ nào đó mà họ để mặc hậu quả xảy ra.

Công an nên nhìn lại trách nhiệm của mình trước nhân dân; đừng quá vô cảm, thờ ơ trước sự lo lắng của dân.

Không biết các bạn nghĩ sao về việc này, riêng bản thân tôi, cần xem xét dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự của những Công an để xảy ra sự việc đau lòng này:

Điều 102. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:

a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;

b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

        Điều 285. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.

3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
thật buồn cho lối làm việc của công an việt nam mình.

có hậu quả rồi mới khắc phục thì đã qua muộn với những người cần giúp đỡ.

Nguyễn Khánh Chinh

http://danluat.thuvienphapluat.vn/khoi-to-cong-an-de-xay-ra-an-mang-90668.aspx

 

Luật sư Nguyễn Thạch Thảo - Tư Vấn Pháp Luật: Vô cớ xúc phạm rồi đánh phụ nữ

Xin nhờ các luật sư tư vấn giúp tôi câu chuyện xảy ra như sau:

Lúc 16giờ45phút chiều thứ năm ngày 21 tháng 03 năm 2013 tôi đi từ nhà ba mẹ ra đến ngã tư phía nhà anh C ở thôn HT thì gặp chị T đón con đi học ở trường TH về, sắc mặt chị T xanh mét, hớt hơ hớt hải giơ tay báo hiệu cho tôi dừng lại rồi chị T lại gần nói với chuyện với tôi:

Chị T nói" Gì H ơi! tui may mà có phụ huynh can không thì bị B đập chết rồi" Tôi không hỏi gì, chị T kể tiếp" Đang chờ đón con ở trước cổng trường thì mọi người ngồi nói chuyện phiếm rồi B nói" Bây đi dạy Mầm non lương được mấy xu, nghỉ dạy tau đưa đi làm cave dưới XT nhiều tiền hơn.... Mà mi về nói con H nữa, nhìn con nớ tau ghét lắm nói hắn lên tau dạy cho ít chiêu tau đưa xuống XT làm cave cho nhiều tiền,..."Nghe chị T kể xong tôi nói" Kệ nó" rồi cùng con trai 9 tuổi đi về nhà, cắm nước sôi để tắm cho con, hai mẹ con ăn sữa chua, váng sữa và mía. Được một lúc con tôi xin đi đá bóng, tôi đổ nước sôi vào phích rồi ngồi ăn mía. Tôi chợt nghĩ, tôi và B trước đây có học chung lớp hồi cấp I và cấp II, thỉnh thoảng gặp nhau vẫn chào hỏi bình thường, tôi không thù oán gì với B hay bất cứ ai trong gia đình B. Chắc có sự hiểu lầm hay sao mà trước mặt đông đảo phụ huynh B lại thả lời xúc phạm tôi. Tôi nghĩ khi nào gặp B chắc phải hỏi sao lại nói nhau như thế ở nơi đông người, đó là lời nói xúc phạm nhân phẩm và danh dự của người khác.

Được một lúc mẹ tôi gọi nói tôi đi xuống o H ở xã XY xin ít cây Từ bi về mà trồng vào ngõ vườn, thế là tôi đi. Trên đường đi đến đoạn đường từ trạm y tế xã DC đi xuống XY tôi thấy B đang đứng với hai thanh niên khác ở bên đường, tôi đi qua 1 đoạn lại vòng xe lại để gặp B.

Lại tới nơi, tôi chào:" Cậu B à" và gật đầu chào hai thanh niên kia( vì tôi không biết tên 2 người đó). Tôi vừa dứt câu chào thì B quát" Mi lên đây mần chi" và cúi xuống cầm 1 chiếc dép lên. Trong khi đó tôi trả lời" Nghe nói cậu hỏi chi o". Tôi chưa dứt câu thì B lấy dép đập tới tấp vào mặt tôi vừa đánh B vừa chửi" Xương cha mi, tau đập cho mi chết rấp đi này"..., tôi chỉ kịp lấy tay đỡ, khi máy điện thoại tôi rung có cuộc gọi tôi bỏ tay để định nghe máy thì B đập vào mắt trái của tôi, cái mắt kính cận loạn bị vỡ khỏi cọong kính dính chặt vào mắt, tôi đang phủi mặt kính khỏi mắt thì B đánh lần nữa và bay chiếc dép.

Tôi nghĩ đến đây chắc B sẽ dừng tay, nhưng không. B lấy tiếp chiếc dép còn lại trong chân tiếp tục đánh, vừa đánh vào mặt và đầu vừa xỉ vả" Xương cha mi..."..." Bồ đoàn nhà bây muốn hàm hồ với choa à"..." O chi mi cái loại mi mà o, hê...hê..."..." Tau đập chết cha mi chơ... cậu à"... " Tau cần cái loại mi kêu cậu à"..." Tau đập chết cha mi... chơ cậu à.."Mi cút... mi cút" ... Trong khi B đánh tôi thấy chóng mặt. Đến khi B vừa đánh vừa nói" Tau đập chết cha mi nì" thì tôi thấy cái gì đó đánh mạnh trên đầu, đau nhói tôi ngước lên thấy choáng váng rồi ngã xuống không biết gì. Một lát, thì có tiếng gọi" Chị ơi! Dậy đi..." tôi tỉnh lại nhưng trong tình trạng choáng váng, nghe nhiều người nói lao nhao rồi thấy A và D( vợ B) dìu tôi lên xe và đưa về nhà riêng của tôi. Về đến nhà A, Thảo và 1 người thanh niên nữa bảo nhau về để tôi lại 1 mìnMột lát sau tôi không biết gì cho đến khi tôi nghe tiếng ba tôi gọi và mọi người nói lao nhao. Đêm hôm đó ba mẹ, cậu, gì và các anh chị theo dõi tình trạng sức khỏe của tôi, thấy tôi không nằm được, thỉnh thoảng lại nôn khan, uống nước vào cũng bị nôn. Sáng thứ sáu ngày 22 tháng 03 năm 2013 gia đình tôi đã đưa tôi đi bệnh viện để chụp CITY, khi các bác sỹ chẩn đoán cho chụp CT Scanner đến 32 dãy sọ não, sau khi xem phim Bác sỹ kết luận tôi bị chấn thương sọ não phải nhập viện.

Câu chuyện xảy ra như vậy thì thì B sẽ bị khép vào những tội danh nào là nặng nhất? Tội danh đó nằm ở điều khoản nào của bộ luật.

Re: Vô cớ xúc phạm rồi đánh phụ nữ

Chào bạn! Luật sư Nguyễn Thạch Thảo tư vấn cho bạn như sau:

Theo thông tin bạn trình bày thì hành vi của B đã cấu thành tội Cố ý gây thương tích theo điều 104 BLHS, Do vậy bạn cần làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và yêu cầu cho bạn được giám định tỉ lệ thương tật để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với B về tội danh " Cố ý gây thương tích" gửi cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận Huyện nơi xảy ra sự việc. Bạn có thể tham khảo qui định về tội cố ý gây thương tích như sau:

Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Thân chào.
 

6/4/13

Quỳnh Anh : Dịch vụ pháp lý - “hot” và “hốt”!


hình minh họa
Nghề cung ứng dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật ngày càng có vị thế và được trọng dụng. Bên cạnh đó, nghề “thầy cãi” cũng được xem là nghề “hốt”: vừa “hốt bạc”, lại vừa hốt hoảng vì lắm hệ lụy rủi ro. Nhưng dù vậy thì hành nghề dịch vụ pháp lý vẫn đang là lựa chọn hàng đầu.

Bằng chứng là các văn phòng luật sư (VPLS), các công ty luật phát triển mạnh, hình thức tư vấn pháp luật phong phú, đa dạng, cung cấp thêm nhiều lựa chọn cho các “thượng đế” khi cần được hỗ trợ pháp lý.  

Thời của luật sư

Ngày nay, khi bạn gặp vướng mắc về mặt pháp lý - thật không quá khó để tìm một VPLS xin tư vấn. Thậm chí ở nhiều thành phố lớn còn có những đường phố được mệnh danh là “phố LS” với nhan nhản biển hiệu VPLS cùng các loại cờ quạt muôn hồng nghìn tía san sát nhau.

Có cung ắt có cầu và ngược lại, đối với nhiều người dân thành phố thì nhất cử nhất động liên quan đến pháp lý đều phải đi tham vấn LS,  bất kể đó chỉ là tranh chấp… nhà vệ sinh hay vợ chồng hàng xóm gây ô nhiễm tiếng ồn… Theo LS. Nguyễn Văn Hà (Trưởng VPLS Hà Lan, Hà Nội), đây là một thói quen rất tốt, rất văn minh cần được nhân rộng, vì sự tư vấn kịp thời của LS sẽ giúp giải quyết sự việc theo đúng hướng, đúng luật.

Chưa bao giờ các dịch vụ pháp lý lại “muôn hoa đua nở” và tiện ích như hiện nay. LS. Nông Thị Hồng Hà (Công ty Luật Hồng Hà, Hà Nội) cho biết: Khi gặp vướng mắc về pháp lý, bạn có thể thoải mái lựa chọn để tìm một nhà cung ứng dịch vụ phù hợp nhất với mình về mọi phương diện không gian, thời gian, thậm chí cả hoàn cảnh.

LS. Hà đơn cử, trường hợp bạn không có thời gian, ngại đường xá xa xôi thì bạn có quyền yêu cầu được cung cấp dịch vụ pháp lý tại nhà riêng, cơ quan, doanh nghiệp; bạn muốn bí mật câu chuyện về thân phận, hoàn cảnh của mình thì chọn hình thức tư vấn qua điện thoại, tư vấn qua mạng...

Giá cả dịch vụ tư vấn cũng được nhiều VPLS công khai. Trung bình phí tư vấn tại trụ sở giá 400.000 đồng/giờ, tư vấn qua điện thoại 3.000 đồng/phút, tư vấn thành lập doanh nghiệp trọn gói 6 triệu đồng, tư vấn lập di chúc 4 triệu đồng... Với “cần câu cơm” cung ứng dịch vụ pháp lý, thu nhập hàng tháng của một LS ít nhất cũng được vài chục triệu đồng.  

Tuy nhiên, câu chuyện giá cả và chất lượng dịch vụ pháp lý vẫn đang là vấn đề đáng phải bàn. Bên cạnh những “thương hiệu” LS uy tín, có trách nhiệm với khách hàng thì còn khá nhiều tổ chức hành nghề LS cung cấp dịch vụ pháp lý với chất lượng chưa đạt yêu cầu khiến khách hàng phàn nàn, không hài lòng, thậm chí khách hàng còn bị xâm hại quyền lợi.

Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực dịch vụ đặc biệt bởi nó gắn với hiệu quả quản lý nhà nước và có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân nên hoạt động nghiệp vụ của LS mang tính tương tác cao, có thể thấy được hệ quả chỉ trong khoảng thời gian ngắn.

Tuy nhiên, vấn đề là các LS phải thận trọng và sáng suốt sao cho dung hòa quyền lợi của thân chủ trên cơ sở pháp luật. Vụ một LS ở Hà Nội phải nhận mức án tù ở cấp sơ thẩm chỉ vì nhận làm dịch vụ pháp lý soạn đơn vu khống bí thư huyện ủy theo yêu cầu của đương sự chính là một bài học đắt giá cho các đồng nghiệp!

Cảnh báo hệ lụy

Đối với nghề dịch vụ pháp lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, kỹ năng hành nghề tốt chưa hẳn đã là yếu tố quyết định hiệu quả của công việc mà LS đang làm. Trong hoạt động nghiệp vụ của LS thì lobby - tức vận động hàng lang có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng phải thừa nhận hiện nay, việc vận động hành lang lành mạnh rất ít mà đang bị biến tướng theo xu hướng tiêu cực. Hệ lụy của việc vận động hành lang không lành mạnh đôi khi dẫn đến hệ lụy là thân chủ kiện LS ra tòa.



Càng ngày việc LS bị thân chủ kiện cáo, “lật kèo” càng không còn là hiếm. “Làm không đạt mục đích, yêu cầu thì họ kiện đã đành, đằng này được việc cho họ, LS cũng vẫn bị kiện!” – một LS bày tỏ nỗi bức xúc khi bị thân chủ tráo trở đòi lại một khoản tiền ngoài hợp đồng dịch vụ pháp lý mà ông đã nhọc công kết nối để anh ta “lobby” người này người kia, chỗ này chỗ kia để việc kiện tụng đạt hiệu quả.

Với cuốn băng ghi hình tương đối tròn vành rõ tiếng mà thân chủ quay lén được, thân chủ “ra giá” ông phải hoàn trả lại khoản tiền “lobby” bất hợp pháp, không minh bạch trên, nếu không sẽ tố cáo sự việc đến cơ quan chức năng. Đương nhiên là vị LS này không chấp nhận với lý do hai bên đã thỏa thuận tự nguyện và thực tế cuộc gặp gỡ tình cảm đó cũng đã mang lại hiệu quả thiết thực đúng như yêu cầu của đương sự. Khi ông nói cứng nếu ra tòa, hoàn toàn không có bằng chứng về việc LS môi giới mà chỉ có dấu hiệu đưa hối lộ, thân chủ mới lảng qua chuyện khác! Chẳng biết rồi chuyện sẽ ra sao…

LS. Thanh Nga (VPLS số 5, Hà Nội) cho rằng, hành nghề dịch vụ pháp lý là một “nghề nguy hiểm” nên khó tránh được những rủi ro. Vậy nên thay vì trốn tránh nó thì hãy chấp nhận sống chung, hoặc chủ động lường trước rủi ro để “ứng phó”.

Không nói thẳng quan điểm của mình nhưng LS. Phượng (VPLS An Vũ, Hà Nội) kể lại câu chuyện N.C. - một LS đàn anh ở Hà Nội sau vụ bị thân chủ tố cáo chạy án cho vụ đánh bạc đã phải trang bị thiết bị phá sóng để các thân chủ không thể ghi âm, ghi hình các “hoạt động nghiệp vụ” của mình. Theo Phượng, đó chưa hẳn là một cách làm hay nhưng lại cần thiết vì hiệu quả thiết thực của nó!

Trao đổi xung quanh những chuyện lùm xùm LS bị kiện, LS. Nguyễn Minh Cường (VPLS Miền Bắc, Thái Bình) cho rằng: Không thể coi đó là tai nạn nghề nghiệp vì tai nạn là những rủi ro khách quan còn bản thân người LS phải công minh, ngay thẳng. Nhưng ở đây đều có yếu tố lỗi của chủ thể khi LS có làm chuyện mờ ám, khuất tất, không đúng đạo đức nghề nghiệp… Nói như vậy nhưng đối với nghề “thầy cãi”, đôi khi trình độ chuyên môn tốt, kiến thức vững chưa hẳn đã thắng.

 

5/4/13

Minh Văn: Trả lại Chính Danh


Bạn thử hình dung tâm trạng của một người khi bị lừa dối, bị đổ thừa và vu khống sẽ như thế nào? Ắt hẳn là sự tức giận và căm phẫn khôn cùng phải không quý vị? Khi bạn không có những quyền hạn nào đó nhưng họ nói rằng bạn đang được hưởng. Khi những lợi ích vật chất hay tinh thần không dành cho bạn nhưng người ta lại nói là của bạn. Những tội ác do kẻ khác gây nên nhưng lại mang tên bạn...; Nói tóm lại, người đó không được hưởng một chút lợi ích gì, nhưng lại phải gánh chịu mọi thiệt hại do kẻ khác gây ra. Chuyện có vẻ ngược đời nhưng lại là thực tê trên đất nước chúng ta. Ở Việt Nam có một người như vậy, người đó mang tên “Nhân Dân”. Nhân Dân là tập hợp của những người dân trong một đất nước, thưa quý vị.
Xã hội Việt Nam hiện nay đang có hiện tượng hỗn mang về khái niệm và tên gọi. Sự rối loạn này do Đảng Cộng Sản gây nên để phục vụ cho mục tiêu lừa đảo. Họ cố tình làm cho người dân nhầm lẫn rằng: Đảng Cộng Sản chính là dân tộc, là nhân dân, là tất cả mọi thứ trên đời. Để rồi từ đó huyễn hoặc rằng: Xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản là ý nguyện của toàn dân tộc, chứ không phải là ý đồ của một nhóm người điên. Người dân bị xoáy vào vòng luẩn quẩn của sự lừa dối đó mà không còn biết được vị trí của dân tộc và nhân dân ở đâu. Đầu óc của họ đã bị tuyên truyền lừa mị đến độ cứ tưởng rằng đảng Cộng Sản đẻ ra dân tộc và nhân dân Việt Nam.
Vì vậy cho nên, việc xác định rõ chính danh cho các khái niệm là điều rất cần thiết cho xã hội Việt Nam hiện nay. Để chúng ta xác định ai chính ai tà, cái gì đúng và cái gì sai. Và rằng nhất định phải như vậy, mọi thứ phải trở về với ý nghĩa đích thực của nó, vì sự lừa dối và ép buộc chỉ là thắng lợi nhất thời của kẻ ác mà thôi.
Đã đến lúc cần thẩm định lại ý nghĩa và chủ nhân của các danh từ sau: Chính quyền nhân dân, Tòa án nhân dân, Công an nhân dân, Hội đồng nhân dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội Nông dân...; phải xác định lại tính chính danh của các khái niệm này, hòng trả lại chủ sở hữu đích thực, thiết lập lại sự trong sáng cho xã hội. Một xã hội mà lâu nay bị vẩn đục bởi sự lừa dối và lưu manh hóa của chế độ Cộng Sản toàn trị. Mọi người dân vẫn hiểu rằng họ bị lừa dối và gán ghép cho những khái niệm trên. Thực tế hiện nay không có một “Chính quyền nhân dân” nào cả, cũng như “Tòa án nhân dân” hay “Hội đồng nhân dân”. Nếu không thì những bất công và tội ác do nhà nước Cộng Sản gây ra cũng là của nhân dân sao? Ai cũng biết rằng những thứ đó là của đảng Cộng Sản, họ chỉ mượn danh nhân dân để hợp thức hóa cho sự tồn tại của một chế độ độc tài phi nghĩa.
Chúng ta biết rằng, người Cộng Sản gọi nhau là “Đồng chí”, từ này có nghĩa là “cùng chí hướng”. Vậy thì những người có chung một mục đích, một lý tưởng thì mới gọi nhau là đồng chí, ngoài ra thì không gọi như vậy. Những kẻ gọi nhau là đồng chí là đồng đảng Cộng Sản với nhau, như dân ta vẫn thường nói nôm na là “cùng một duộc”. Vâng, chúng nó cùng một duộc với nhau cả, thưa nhân dân. Khi nói trước công luận, thì bao giờ người Cộng Sản cũng sử dụng những khái niệm có gắn từ “nhân dân” kia để hòng mị dân và làm bình phong che đậy. Còn khi hội nghị thì họ lại gọi nhau là “đồng chí”, đây là lúc phơi bày mặt chuột của những kẻ lừa đảo. Những cái tên nghe rất dân sự như: Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Quỹ tín dụng nhân dân...mà khi hội nghị cũng “đồng chí” với các cán bộ nhà nước. Hãy xem, hãy chứng kiến thì sẽ thấy lúc này những con Cáo hay Hồ Ly Tinh đã hiện nguyên hình như thế nào. Nó khiến người ta không khỏi tởm lợm cho cái trò lừa đảo trơ trẽn và táng tận lương tâm của một đảng Cầm quyền. Chỉ có người dân là trở thành món hàng và đối tượng làm tiền của những kẻ gọi nhau là “đồng chí” này.
Nhân dân không có quyền gì cả, mọi đặc quyền đặc lợi thì các “đồng chí” hưởng hết. Vậy thử hỏi làm sao người dân không phẫn uất khi các “đồng chí” đưa ra khẩu hiệu này: “Nhà nước của dân, do dân vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Cả cái Chính phủ và Quốc hội kia cũng vậy, nó chẳng thuộc về dân chút nào, mà nó chỉ phục vụ cho lợi ích của đảng Cộng Sản mà thôi. Ngay cả cái quyền phổ thông đầu phiếu kia cũng không thuộc về nhân dân. Ấy vậy mà trên danh nghĩa thì nhân dân có hết. Nhà nước còn tuyên truyền rằng, “bầu cử thực sự là ngày hội của toàn dân”, như thế mới đểu chứ? Vô lý như vậy nhưng không ai phân trần được cả, vì các phương tiện truyền thông nhà nước nắm giữ hết, họ cấm báo chí và truyền thông tư nhân.
Trong tự nhiên có một hiện tượng thú vị, ấy là “Ốc mượn hồn”. Theo đó thì những chú Tôm láu cá chui vào cái vỏ cứng của những con Ốc đã chết. Chúng làm như vậy là để tạo vỏ bọc và đánh lừa các sinh vật biển khác. Những chú Ốc này mặc dù đã chết (chỉ còn cái vỏ) nhưng vẫn đi lại bình thường, nhìn vào người ta dễ nhầm tưởng rằng chúng vẫn đang sống. Xin quý vị hãy liên tưởng tới xã hội Việt Nam lúc này, rồi xác định xem đâu là vỏ ốc và đâu là con Tôm láu cá kia nhé.
Cổ nhân có câu: “Danh chính ngôn thuận”. Đúng vậy, danh có chính thì ngôn mới thuận. Kẻ nào không chính danh là lừa dối, kẻ nào mượn danh là lừa đảo, vì thế mà chẳng ai nghe chúng cả. Ngay bây giờ đây, chúng ta hãy cùng nhau xác định rõ chính danh cho các khái niệm cơ bản, hòng trả lại sự minh bạch cho Xã hội Việt Nam. Các khái niệm đó là: Dân tộc, Nhân dân, Cộng Sản.
Hãy xác định rõ những cái gì là của dân tộc và nhân dân Việt Nam, cái gì là của Cộng Sản, thưa toàn thể quý vị.

Facebook Twitter Stumbleupon More