Giới Thiệu

Blog Luật của Sự Thật là một trang blog đăng tải các tin tức bài vỡ liên quan đến những sự kiện bất công, lạm dụng luật pháp hiện đang xảy ra tại Việt Nam.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 1

Xin nhấn vào đây để đọc tập 1 về quyền biểu tình.

Chân dung ông Nguyễn Đức Kiên

Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 2

Xin nhấn vào đây để đọc tập 2 về quyền hội họp, lập hội, lập đảng.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 3

Xin nhấn vào đây để đọc tập 3 về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin.

27/12/11

Mikhail Gorbachev lên tiếng: “Vladimir Putin, đừng tham quyền cố vị”

Mikhail Gorbachev lên tiếng: “Vladimir Putin, đừng tham quyền cố vị”



Hằng chục ngàn người đổ xuống đường biểu tình trên toàn nước Nga, yêu cầu tổ chức lại cuộc bầu cử quốc hội và đồng thời yêu cầu thủ tướng Vladimir Putin từ chức.

Báo chí Nga tường thuật cuộc biểu tình lớn nhất là ở Mạc Tư Khoa (Moscow), nơi có hơn 50.000 người tham dự.

Phe đối lập và những người phản đối nói là cuộc bầu cử quốc hội hôm đầu tháng đã bị gian lận để cho đảng Liên Hiệp Nga (United Russia) có lợi thế.

Trong tuần này, chính phủ Nga đã thông báo là họ sẽ tiến hành cải cách chính trị gồm nhiều điểm, tuy nhiên họ từ chối không tổ chức bầu cử quốc hội lại.

Với những tấm bích chương cầm tay “Bầu cử Tự do”, người biểu tình đi qua Đại lộ Sakharov của thủ đô Mạc Tư Khoa, con đường này được đặt theo tên ông Andrei Sakharov, là một nhà bất đồng chính kiến đã được trao tặng giải Nobel, người từng thách đố nhà nước Xô-Viết Cộng sản trong một thời gian lâu dài, trong nhiều năm.

Hy vọng cho Trần Huỳnh Duy Thức

Thời gian vừa qua, có tin luật sư Lê Công Định sẽ được trả tự do. Sự việc này làm dấy lên hy vọng về những khả năng được tự do trước thời hạn đối với một số nhân vật, trong đó có ông Trần Huỳnh Duy Thức.


Nhân sự việc này, Quỳnh Chi tổng hợp một số thông tin liên quan về ông Trần Huỳnh Duy Thức.

Bản án nặng nhất


Trong phiên xử bốn nhân vật bao gồm LS Lê Công Định, Thạc Sĩ Nguyễn Tiến Trung, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long vào tháng 1 năm 2010 với tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, ông Trần Huỳnh Duy Thức là người nhận bản án nặng nhất với 16 năm tù giam và 5 năm quản chế.

Trước khi bị bắt, ông Thức được biết đến như một doanh nhân thành công và người hoạt động tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam với những bài viết về kinh tế.

Tốt nghiệp đại học Bách khoa TP.HCM, năm 1993, ông Thức cùng bạn bè trong đó có ông Lê Thăng Long thành lập công ty Duy Việt, chuyên cung cấp các thiết bị vi tính tại Hà Nội. Đến năm 2000, công ty này được phát triển thành công ty EIS - Electronic Information System – nhằm cung cấp phần mềm trong ngành công nghệ thông tin. Hai năm sau, công ty con cung cấp dịch vụ điện thoại internet OCI ra đời, đặt văn phòng tại Singapore, đánh dấu một bước đột phá trong ngành công nghệ thông tin Việt Nam, cũng như những mở đường cho kế hoạch đầu tư ra các nước khác, trong đó có Hoa Kỳ. Cho đến khi trước khi bị bắt, ông Thức là tổng giám công ty OCI.

22/12/11

Bắt giam 2 Phó giám đốc Sở Y tế vì tiêu cực

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong đấu thầu thuốc tây, bỏ túi hàng tỷ đồng nên 4 cán bộ và 2 Phó giám đốc Sở Y tế Gia Lai đã bị bắt tạm giam.


Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai cho biết, ngày 21/12 bắt tạm giam 2 nguyên Phó giám đốc Sở Y tế là BS Nguyễn Công Nhân (54 tuổi) và BS Đặng Đức Châu (48 tuổi). Bốn người còn lại là Rơh Mah Lih (55 tuổi), nguyên Trưởng phòng Kế hoạch tài vụ; Bùi Ngọc Thư (43 tuổi) nguyên Phó phòng Kế hoạch tài vụ kiêm Kế toán trưởng; Lê Khánh Lân (55 tuổi), cán bộ phòng Kế hoạch và dược sĩ Nguyễn Thị Kim Liên, nguyên chuyên viên phòng nghiệp vụ dược.

Sáu cán bộ này ở tổ chuyên gia xét thầu của Sở Y tế tỉnh Gia Lai. Trước đó, ngày 18/11, cơ quan điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 2 cán bộ khác trong tổ chuyên gia xét thầu thuốc có liên quan vụ gian lận đấu thầu thuốc là Phan Minh Hiếu, Phó phòng nghiệp vụ y và Đoàn Cường, Phó phòng nghiệp vụ Dược.

Theo cơ quan điều tra, những cán bộ này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn trục lợi tiền tỷ từ các vụ đấu thầu thuốc, làm thiệt hại cho người bệnh, quỹ bảo hiểm y tế và thất thoát của nhà nước hơn 8,5 tỷ đồng. 

Câu hỏi pháp luật liên quan đến Cưỡng Chế Thu Hồi Đất

Tôi nghe nói khi Nhà nước tiến hành giải tỏa đất thì việc bồi thường đất phải dựa trên sự thỏa thuận của chủ đầu tư với các hộ dân và chính quyền không được quyền cưỡng chế, có đúng vậy không? uet_san…@yahoo.com.vn



Luật sư TRẦN CÔNG LY TAO trả lời:

Theo Điều 36 Nghị định 181/2004 của Chính phủ, Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đồng thời thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế. Ở diện thứ nhất, Nhà nước thu hồi đất trong những trường hợp như sử dụng đất để xây dựng các công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh; sử dụng đất để chỉnh trang, phát triển khu đô thị và khu dân cư nông thôn… Ở diện thứ hai, Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp như sử dụng đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao…

Ngoài ra, theo khoản 6 điều luật này, Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án không thuộc quy định hoặc trong trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người đang sử dụng đất.

Nếu dự án mà bạn nêu trong thư thuộc diện thứ nhất hoặc thứ hai và không thuộc trường hợp nêu tại khoản 6 thì Nhà nước có quyền thu hồi đất. Bấy giờ, việc cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 32 Nghị định 69/2009.

Gồm có: đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quá 30 ngày kể từ thời điểm phải bàn giao đất mà người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; có quyết định cưỡng chế của UBND cấp có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế (hoặc quyết định này đã được niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất thu hồi…)...

TP ghi

http://phapluattp.vn/2011122110443607p1027c1099/cuong-che-thu-hoi-dat.htm

Chúc Thư



Nhân mùa Giáng Sinh sắp đến, Luật của Sự Thật xin kính chúc quý bạn và thân quyến một mùa Giáng Sinh an lành và hạnh phúc. Chúc quý bạn hãy tiếp tục chia sẽ tình yêu đến với tha nhân và mang công bình đến với xã hội.

21/12/11

Trần Ích Tắc

Thời Trần của Đại Việt, có một kẻ hàng giặc cầu vinh, tự dối mình gạt người bằng học vấn uyên thâm, ấy là Trần Ích Tắc. Sứ giả Nguyễn Đại Pháp của Đại Việt đã làm bẻ mặt Trần Ích Tắc vào năm Nhâm Thìn 1292 khi đi sứ nước Nguyên. Ngày xuân nghĩ về cha ông, rất đỗi tự hào, cảm phục những anh hùng liệt nữ nhưng cũng không khỏi buồn lòng về một số nhân vật lịch sử đớn hèn, có học vấn cao nhưng vẫn mơ hồ về chủ thuyết “bốn biển là anh em” như Trần Ích Tắc. Không may cho Ả Trần, một môn đồ của ông là Lê Tắc, trong An Nam chí lược đã ghi chép khá chi tiết về hành trạng của ông, một hàng thần được thiên triều Nguyên trọng dụng và ban nhiều ân sũng.




Trần Ích Tắc là hoàng tử thứ năm của vua Trần Thái Tông. Trần Ích Tắc rất thông minh, ham học và tài hoa. Tứ thư ngũ kinh làu thông mà các kinh Pháp Hoa, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm... ông cũng tham cứu sâu sắc, nhưng ông không đạt được minh triết của Tuệ Trung Thượng Sĩ, không có tiết tháo của Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản...Thật vậy Trần Ích Tắc với tước Chiêu Quốc Vương, từng lĩnh ấn Đại Tướng, chỉ huy chống giặc miền Đà Giang, mới thua địch đã vội đầu hàng.Chẳng qua ông đã nhòm ngó ngai vàng từ trước, kẻ cơ hội chớp được thời cơ bất chấp liêm sĩ. Một tuấn sĩ sớm trở thành kẻ vô sĩ, đem triết lý Tống Nho biện minh cho hành động “nội phụ” thiên triều Nguyên, tự cho mình đã thể hiện chữ trung với Nguyên đế. Trần Ích Tắc đã “chính danh hóa” việc ông đầu hàng và xu nịnh triều Nguyên, mưu đồ đưa Đại Việt vào đồ bản đế quốc Nguyên Mông, bằng triết học Tống Nho.

Lập luận sặc mùi nô dịch của Trần Ích Tắc là khi Trần Thái Tông, phụ vương của ông, chịu thần phục thiên triều Nguyên, nhận ấn An Nam Quốc Vương thì việc ông “hàng nhà Nguyên”, lĩnh ấn An Nam Quốc Vương là “nối chí” của tiên đế. Trong bài thơ “ Xuất quốc” của Trần Ích Tắc, ông tự cho mình là người “trung quân ái quốc” thuộc loại “siêu hạng”, không ai hiểu được ông, chỉ có trời mới biết:

Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày
 Lòng trung canh cánh có trời hay.”

 Trần Ích Tắc muốn phơi bày lòng mình bằng điển cố điển tích một cách ngụy tín:

Chẳng qua Vi Tử buồn Ân mất,
 Há phải Văn Công trốn nước ngoài.”

EVN Không Sòng Phẳng khi Bất Ngờ Tăng Giá Điện

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng quyết định tăng giá điện của EVN không phản ánh vào lạm phát năm nay, nhưng sẽ tạo tiền lệ xấu và gây khó cho hoạt động điều hành giá lâu dài.
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa thông báo tăng giá điện khoảng 5% kể từ 20/12. Điều chỉnh này tác động như thế nào tới chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 2011 cũng như mục tiêu kiềm chế lạm phát một con số của năm sau?

Chuyên Gia Kinh Tế Phạm Chi Lan

- Tôi rất bất ngờ trước thông tin này vì nhiều cam kết của cơ quan điều hành đưa ra trước đó đều khẳng định việc điều chỉnh giá phải theo lộ trình và tránh gây sốc cho nền kinh tế.

EVN thông báo tăng giá vào ngày 19/12, tức là sau thời điểm Tổng cục Thống kê lấy số liệu tính CPI tháng 12. Như vậy lạm phát của năm 2011 sẽ không bị ảnh hưởng nhưng chắc chắn sẽ để lại hệ quả trong giai đoạn đầu năm 2012. Trong khi đó, những e ngại việc CPI sẽ tăng trở lại trong tháng một tới do tác động của Tết vẫn còn đó thì việc tăng giá điện rất có thể sẽ trở thành yếu tố châm ngòi.

- Theo giải trình của Bộ Công Thương và EVN, mức tăng giá lần này chỉ khoảng 5% nên doanh nghiệp không phải chờ ý kiến phê duyệt của Thủ tướng. Đồng thời EVN cũng không tăng giá bán đối với hộ nghèo và bậc thang điện sinh hoạt 0 - 100 kWh. Bà bình luận gì về điều này?

- Theo tôi thì với một mặt hàng quan trọng như điện thì không nên trao quyền tự quyết cho doanh nghiệp với bất cứ tỷ lệ % nào. Lần điều chỉnh này chỉ 5% nhưng rất có thể là khởi đầu cho những lần tăng khác trong năm 2012 hay không? Rồi nếu mỗi quý EVN tăng 5% thì cộng lại, mức tăng sẽ như thế nào?

Thêm vào đó, việc làm lần này cho thấy bằng cách này hay cách khác, doanh nghiệp vẫn có khả năng tăng giá. Vấn đề chỉ là ít hay nhiều mà thôi.

Khi Tòa án Nhân dân Tối Cao sai lầm

Mới đây, đại tá công an Lã Ngọc Tỉnh công khai trên báo chí chi tiết cuộc họp của TAND Tối cao trước khi quyết định giám đốc thẩm vụ án ba thanh niên hiếp dâm, cướp của tại Hà Đông.


Vụ án hiếp dâm cướp của của ba thanh niên tại Hà Đông sau gần 11 năm lại được giở ra trước dư luận dưới sự chờ đợi của gia đình nạn nhân cũng như những người quan tâm. Thế nhưng phán quyết giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối cao đã làm nhiều người hụt hẫng. Những nỗ lực của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao bác bỏ các cáo buộc của hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm không làm tòa Tối cao chú ý và mọi kết quả điều tra của hai phiên tòa xét xử ba thanh niên này được tòa Tối cao chấp nhận như những bằng chứng cho cơ sở buộc tội.

Bức thư của ông Lã Ngọc Tỉnh

Tuy nhiên, mới đây đại tá công an Lã Ngọc Tỉnh, nguyên Chánh văn phòng kiêm Phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an TP Hà Nội, đã công khai một lá thư ghi rõ diễn tiến câu chuyện về buổi họp trước khi có quyết định giám đốc thẩm của TAND tối cao khiến giới làm luật phải nhìn lại vấn đề.



Theo ông Tỉnh thì TAND tối cao đã tổ chức một cuộc họp mà thành phần tham dự không đúng với quy định pháp luật cho một phiên giám đốc thẩm.

20/12/11

MỘT VÀI Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992


(Luật của Sự Thật xin được gửi đến quý bạn bài mới nhất của Thảo Đăng đề xuất một vài ý kiến cho việc sửa đổi Hiến Pháp 1992 đính kèm)
 
Hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ Việt nam về việc góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng tôi xin đề xuất một vài ý kiến sau :
1/ Về điều 4 Hiến pháp :
Đơn giản là nên xóa bỏ hoàn toàn điều 4 Hiến pháp bởi vì nếu quy định rằng 'Đảng Cộng sản Việt nam, ..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội' thì có nghĩa là người dân sẽ chẳng bao giờ có quyền tự do chính trị, quyền tự do chọn lựa thực sự. Bởi vì điều đó có nghĩa là dù người dân có bỏ phiếu thế nào, có quyết định thế nào thì kết quả vẫn là Đảng Cộng sản Việt nam thắng cử và nắm quyền lãnh đạo. Điều này đi ngược với nguyên tắc 'nhà nước của nhân dân' hay 'quyền làm chủ của nhân dân’  quy định tại điều 2 và 3 Hiến pháp.
2/ Về quy định các quyền công dân :
Nội dung của Hiến pháp 1992 quy định về các quyền công dân  tương đối đầy đủ. Tuy nhiên điều quan trọng là các quyền ấy phải được cụ thể hóa trong luật và các văn bản dưới luật để có thể áp dụng. Ví dụ quyền biểu tình, quyền lập hội..., các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng do chưa có luật điều chỉnh nên không được áp dụng trong thực tế.
Và điều quan trọng hơn là các văn bản luật hay dưới luật không được trái với Hiến pháp, hay nói cách khác có những quy định đi ngược lại các nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp về các quyền ấy. Ví dụ như điều 72 Hiến pháp quy định Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thế nhưng Nghị định của chính phủ số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, được sửa đổi bổ sung bởi nghị định 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008, lại ngang nhiên vi phạm quy tắc này, khi cho phép việc tước đoạt tự do của người dân chỉ bằng một quyết định của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Tất cả các văn bản pháp luật vi hiến như trong ví dụ nêu trên cần phải xóa bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp, như điều 146 của Hiến pháp quy định : « Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp ».

Mẹ của Paulus Lê Sơn hấp hối

Theo thân nhân cho biết: bà Đỗ Thị Tần, mẹ của Paulus Lê Văn Sơn, hôm nay đã trở bệnh rất nặng. Hiện bà đang được cấp cứu tại bệnh viện tỉnh Thanh Hóa và có khả năng không qua khỏi.


Paulus Lê Sơn là một nhà báo tự do đang bị giam tại Trại giam B14, Thanh Trì, Hà Nội hơn 4 tháng nay mà nhà cầm quyền vẫn chưa có chứng cứ buộc tội. Thế nhưng không một ai trong gia đình được gặp mặt anh trong thời gian vừa qua, mà chỉ được gửi đồ dùng và tiền vào mà thôi.


Nhà cầm quyền lấy lý do đang trong quá trình điều tra nên không cho phép thăm gặp, nhưng thực ra họ muốn dùng cách này để mớm cung, khi người thân của đương sự nóng lòng muốn gặp con em mình. Đây là bản chất vô nhân đạo của nhà cầm quyền Việt Nam trong chính sách đối xử với những người bị tạm giam.

19/12/11

Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong-il qua đời

Truyền hình nhà nước Bắc Triều Tiên loan báo lãnh đạo Kim Jong-il vừa qua đời, gây chấn động cho toàn dân.



Thông tin về cái chết của ông được thông báo trên truyền hình quốc gia trong một bản tin đầy xúc động.

Phát thanh viên truyền hình mặc đồ tang, nghẹn ngào nói ông Kim chết hôm thứ Bảy 17/12, vì làm việc quá sức về cả tinh thần và thể chất.

Ông Kim Jong-il năm nay 69 và sức khỏe đã kém nhiều năm nay.

Thông báo trên truyền hình cũng nói lãnh tụ Kim, người dẫn dắt dân tộc từ khi cha ông, Kim Il-sung, chết năm 1994, đã qua đời trên tàu hỏa khi đang đi thăm một khu vực bên ngoài thủ đô.

Cái chết của ông khiến cho toàn dân Bắc Triều Tiên vô cùng bàng hoàng.

Bị bệnh tim?

Con trai thứ ba Kim Jong-un của ông, người mới hơn 20 tuổi, được trông đợi sẽ lên kế nhiệm ông, nhưng chưa có thông tin chính thức nào được công bố trong quốc gia bí mật này.

Cựu Tổng thống Vaclav Havel qua đời



Cố Tổng thống Czech Vaclav Havel trở nên nổi tiếng quốc tế từ những năm 1970.

Vaclav Havel, nhà viết kịch bất đồng chính kiến vốn trở thành tổng thống hậu cộng sản đầu tiên của Tiệp Khắc, đã qua đời ở tuổi 75.

Vị cựu lãnh đạo, vốn thọ bệnh trong một thời gian dài, đã qua đời vào sáng ngày Chủ nhật, theo lời thư ký của ông, Sabina Dancecova.

Trên cương vị Tổng thống, ông Havel đã dẫn dắt quá trình chuyển đổi của Tiệp Khắc cũ sang dân chủ và một nền kinh tế thị trường tự do.

Ông cũng giám sát việc chia tách lãnh thổ một cách hòa bình vào năm 1993 giữa Cộng hòa Séc và Slovakia.

Havel lần đầu tiên được quốc tế biết tới như một nhà viết kịch bất đồng chính kiến ​​trong những năm 1970 qua sự tham gia của ông trong bản tuyên ngôn nhân quyền - Hiến chương 77.

Vaclav Havel sinh năm 1936. Cha ông là một kỹ sư thành đạt trong sự nghiệp.

18/12/11

Sao “Batman” bị làm khó tại Trung Quốc

Nam diễn viên nổi tiếng của Hollywood Christian Bale đã bị nhân viên an ninh của Trung Quốc chặn lại khi cố gắng đi thăm luật sư mù Trần Quang Thành. Vụ việc được CNN đưa tin, gây ra làn sóng phản đối trong và ngoài nước.



Nổi tiếng với vai người hùng Batman chống tội phạm, Christian Bale đang tham gia quảng bá phim Kim Lăng thập tam thoa của đạo diễn Trương Nghệ Mưu tại Trung Quốc.

Nhân dịp này, Christian đã đến thăm luật sư mù Trần Quang Thành ở Sơn Đông, nhà hoạt động từng đứng ra tố cáo các hành động triệt sản và phá thai cưỡng bức của chính quyền đối với hàng nghìn phụ nữ trong huyện ông ở, thuộc tỉnh Sơn Đông.

Hiện ông Thành đang bị quản chế tại gia, cấm mọi sự thăm viếng.


Khi đoàn của Christian đến gần nhà của luật sư Thành thì bị an ninh chặn lại, lôi kéo đi, một số người khác đã bị đánh, xô đẩy. “Tại sao tôi không thể đến thăm ông ta? Những gì tôi muốn chỉ là bắt tay người đàn ông đó và nói cám ơn” - Christian thất vọng chia sẻ.

17/12/11

Những cao ốc bị hỏa hoạn ở Việt Nam

Hỏa hoạn ở tòa nhà ITC (TP HCM) làm 61 người chết, 70 người bị thương; cháy chung cư 18 tầng ở Hà Nội làm 2 mẹ con tử vong... đã để lại nhiều bài học cho công tác phòng cháy chữa cháy.
Quang cảnh hỗn loạn tại Trung Tâm ITC

> Làm sao để thoát khỏi nhà cao tầng đang cháy?

Sau hơn 9 năm, nhiều người vẫn chưa thể quên hỏa hoạn tại Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) cao 6 tầng ở TP HCM cuối tháng 10/2002, cướp đi 61 sinh mạng, làm chừng 70 người khác bị thương, và gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng.

Để ứng phó với vụ cháy được cho là chưa từng có này, TP HCM đã huy động hơn 60 xe cứu hỏa cùng gần 400 chiến sĩ tham gia làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, do những vòi phun quá yếu, không thể phun nước vào tới bên trong toà nhà nên gần 50 văn phòng của các doanh nghiệp, tổ chức đặt trụ sở tại đây bị thiêu rụi.

Lực lượng chữa cháy quá mỏng, không được trang bị đầy đủ (như thiếu loa phóng thanh hướng dẫn người sơ tán, mặt nạ chống nóng, thang cứu hộ...) đã khiến cho quá trình dập lửa cứu người gặp nhiều khó khăn. Nhiều nạn nhân mắc kẹt bị lửa thiêu cháy đen, không thể nhận dạng. Không ít người vì quá hoảng loạn đã lao mình ra khỏi lan can và bị chấn thương.

16/12/11

Hiến Pháp và Một sự Ngộ Nhận về Dân Chủ


“Không phải nguồn gốc của quyền lực, mà chính sự

hạn chế quyền lực mới ngăn nó khỏi trở nên độc đoán.”

(Friedrich Hayek, The Road to Serfdom

Nxb Routledge, London, 1944, trang 53)




Sửa đổi Hiến pháp 1992 là chủ đề hiện đang được rất nhiều người Việt Nam quan tâm, với vô số bài viết trên các báo trong và ngoài nước, một số cuộc hội thảo do các cơ quan hữu quan tổ chức, qua đó nhiều ý kiến thẳng thắn và xác đáng đã được đưa ra. Trong phạm vi của bài này, người viết muốn “mổ xẻ” một vấn đề mà nhiều người đã nêu lên khi bàn về bản Hiến pháp sắp tới của nước ta, đó là sự tập trung quyền lực Nhà nước vào tay Quốc hội và liệu quyền lực của Quốc hội có cần bị hạn chế hay không.

Điều 2 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.” Điều 6 lại ghi: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Điều 83 ghi: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định ở Điều 84, trong đó (i) Khoản 2: Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; (ii) Khoản 6: Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân và chính quyền địa phương; (iii) Khoản 7: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Thư ngỏ của Ba Giám mục Việt Nam Hải ngoại

Chúng tôi biểu lộ sự liên đới với Giáo Hội quê mẹ Việt Nam trong cuộc hành trình tiến về tương lai tươi sáng hơn cho Giáo Hội và cho đất nước. Nhất là, chúng tôi đặc biệt biểu tỏ sự liên đới với giáo xứ Thái Hà hiện đang chịu nhiều thử thách trong khi đòi hỏi những điều chính đáng. Chúng tôi kêu gọi nhà cầm quyền hãy tôn trọng tự do tôn giáo và nhân quyền, để người dân được sống đúng với nhân phẩm theo hiến chương của Liên Hiệp Quốc và có đủ điều kiện để phát huy một đất nước thật sự tự do, độc lập và thịnh vượng.

Đức Cha Mai Thanh Lương


——————–

Kính thưa qúy Đức Ông, Linh Mục, Tu Sĩ và anh chị em tín hữu,

Trong tuần vừa qua từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, ba anh em chúng tôi là Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Toronto, Canada và Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia, đã có dịp gặp gỡ và chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cũng như những thao thức của các Cộng Đồng Dân Chúa nơi chúng tôi đang sống và làm việc. Chúng tôi cũng có dịp lắng nghe những quan tâm, ưu tư của các linh mục, tu sĩ và giáo dân qua những cuộc đối thoại trong tinh thần đoàn kết và xây dựng. Mặc dù đây chỉ là buổi gặp gỡ hữu nghị, chúng tôi nhận thấy cũng cần chia sẻ với anh chị em một số điều như sau:

15/12/11

Người biểu tình - Nhân vật của năm

Cuộc bầu chọn Nhân vật của năm do tạp chí danh tiếng Time tổ chức đã kết thúc với chiến thắng thuộc về “Người biểu tình”. 
Hình ảnh người biểu tình - Nhân vật của năm 2011 Tạp chí Time

Nhân vật của năm được công bố hôm nay trên chương trình Today của kênh truyền hình NBC. Giải thích về sự lựa chọn “Người biểu tình”, tạp chí Time cho rằng năm 2011, mọi lục địa trên toàn cầu đều chứng kiến một làn sóng nổi dậy chưa từng thấy, diễn ra cả trong hòa bình lẫn bạo lực. Từ khắp Trung Đông đến châu Âu và Mỹ, những người biểu tình đã xác lập lại sức mạnh con người trên thế giới và tái định hình nền chính trị toàn cầu. 

“Họ bất bình, họ đòi hỏi, họ không tuyệt vọng thậm chí cả khi họ bị đáp trả bằng hơi cay hay những viên đạn. Họ đã hiện thực hóa suy nghĩ rằng hành động cá nhân có thể tạo ra sự thay đổi lớn”, tổng biên tập Time Rick Stengel nói.

14/12/11

Vụ kiện Vinashin ra tòa ở London


Vụ Elliott Advisors, một quỹ đầu tư rủi ro (hedge fund) có trụ sở ở Mỹ, kiện tập đoàn đóng tàu nhà nước Vinashin của Việt Nam lên Tòa Thượng thẩm London đã có thể chính thức bắt đầu.
Bên nguyên đơn, theo bản tin Reuters 13/12/2011, cho rằng Vinashin đã "vỡ nợ" với khoản tiền cho vay chung trị giá 600 triệu đôla Mỹ.

Elliott chiếm 10% số tiền cho vay đó sau khi mua lại nó hồi đầu 2010. Khoản cho vay từ 2007, theo thỏa thuận đã đáo hạn trả 60 triệu đôla tiền lãi suất vào tháng 12/2011 này.

Hiện Credit Suisse, bên dàn xếp để có khoản vay, vẫn là chủ nợ chính. Các chủ nợ và cũng là nhà đầu tư khác gồm có Standard Chartered, Maybank và Depfa.

Cần lưu ý các chủ nợ khác đã từ chối tham gia đơn kiện của quỹ Elliott, mà theo báo Financial Times là để "tránh có kẻ thù ở Hà Nội".

Một phân tích hôm 12/12 của Financial Times, có thể khiến giới hoạch định chính sách ở Hà Nội tương đối an tâm, nói: "Giữa một thế giới tìm kiếm tăng trưởng - bất kỳ tăng trưởng kiểu gì - một quốc gia tăng trưởng 6% sẽ được tha thứ cho một lần vi phạm."

"Viễn cảnh cho người vay ở thị trường phát triển càng xấu bao nhiêu, kẻ vay ở thị trường đang phát triển lại càng có thể - và sẽ - cư xử xấu bấy nhiêu," Financial Times viết.

Bắt đầu vụ kiện

Tìm hiểu Nghị định Chính phủ về việc đưa vào cơ sở giáo dục

Nghị định của chính phủ về việc quy định đưa người vào các cơ sở giáo dục từ lâu đã được nói đến với những bất cập sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung.


Hình ảnh ghi nhận chi Minh Hằng với biễu ngữ : "Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra luật biểu tình", sau đó chị bị bắt đưa vào "Cơ sở giáo dục"

Việc bà Bùi Thị Minh Hằng bị đưa vào cơ sở giáo dục Thanh Hà một lần nữa làm Nghị định này được nói đến. Để tìm hiểu Nghị định này, Quỳnh Chi hỏi chuyện LS Nguyễn Thanh Lương, phó Chủ nhiệm Đoàn LS tỉnh Bến Tre, cũng là người có nhiều tư vấn trên báo chí về các quy định hành chính và luật dân sự. Trước tiên, ông cho biết:
LS Nguyễn Thanh Lương, Phó Chủ Nhiệm Đòan Luật Sư tỉnh Bến Tre

Đưa đi giáo dục, “tiền trảm hậu tấu”?

13/12/11

Chất vấn nhiều nên trả lời 'phớt qua'


Dù đánh giá của lãnh đạo Quốc hội về chất lượng phiên chất vấn tại kỳ họp vừa qua là "công tác điều hành quyết liệt, linh hoạt", song theo một số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì vẫn còn nhiều hạn chế cần rút kinh nghiệm.

Sáng nay (13/12), Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp đánh giá kết quả kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa 13.

"Có những người được chuẩn bị câu trả lời"

Báo cáo trình trước phiên họp khẳng định: Các phiên chất vấn thực sự dân chủ, thẳng thắn nhưng không gay gắt. Tính tranh luận, đối thoại cao hơn, nhiều vấn đề đưa ra được làm rõ, đi đến cùng.

Công tác điều hành thể hiện quyết liệt, linh hoạt, bảo đảm nội dung, hạn chế được sự trùng lắp, hướng nghị trường vào những vấn đề cần tập trung thảo luận.

Tuy nhiên, đánh giá này chưa nhận được sự tán thành của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

12/12/11

Trung Quốc và Tư Tưởng "Sùng Binh"

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các triều đại phong kiến Trung Quốc thường được tạo dựng và phát triển bởi các tướng lĩnh. 

Trong những triều đại khi mà các vị hoàng đế không trực tiếp cầm quân thì các tướng lĩnh tài ba luôn được trọng vọng. Đồng thời các vương triều cũng luôn hướng tới mục tiêu xây dựng một lực lượng “binh hùng tướng mạnh”.


Sở dĩ như vậy là bởi lực lượng quân đội cùng các tướng lĩnh luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các vị hoàng đế Trung Hoa mở rộng bờ cõi, cai trị xã hội và trấn áp các phong trào phản loạn chống lại triều đình. Chính vì thế trong xã hội Trung Quốc, đặc biệt là đối với giới cầm quyền, từ lâu đã hình thành và nuôi dưỡng một tư tưởng “sùng binh”, coi trọng quân đội và vai trò của các võ quan.
Tuy nhiên dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ảnh hưởng của Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) đối với nền chính trị trong nước đã được kiểm soát một cách cẩn thận, và các tướng lĩnh Trung Quốc ngày nay dường như được hưởng một vị thế chính trị ít đặc quyền hơn so với các võ quan thời phong kiến.

Thật vậy, kể từ năm 1949, vai trò của PLA đối với chính trị trong nước của Trung Quốc nhìn chung tương đối hạn chế, ngoại trừ thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, khi PLA được sử dụng để mang lại ảnh hưởng chính trị cho Mao Trạch Đông trong cuộc đấu tranh nội bộ với các nhà lãnh đạo khác.

Kể từ giai đoạn cầm quyền của Đặng Tiểu Bình, một cựu chiến binh thời kỳ Trường Chinh, không có lãnh đạo tối cao nào của Trung Quốc xuất thân từ quân đội.

Nhà báo 'gài bẫy' CSGT phải nghỉ việc

Báo Tuổi Trẻ vừa tạm đình chỉ công tác phóng viên Hoàng Khương vì 'sai sót nghiệp vụ' khi viết bài về cảnh sát giao thông.


Quyết định này được đưa ra sau khi Công an TP Hồ Chí Minh có công văn gửi tới Cục Báo chí, Bộ Thông tin-Truyền thông, và Ban Biên tập báo Tuổi Trẻ yêu cầu 'kiểm điểm và thu hồi thẻ nhà báo của Hoàng Khương'.

Lý do trực tiếp là sự liên quan của nhà báo này tới vụ nguyên Thượng úy Công an Quận Bình Thạnh Huỳnh Minh Đức bị khởi tố và bắt tạm giam tội nhận hối lộ để giải quyết trái quy định đối với xe vi phạm giao thông và đua xe trái phép.

Điều tra của công an cho hay ông Khương và một người khác đã qua môi giới đưa tiền cho Thượng úy Đức để nhờ ông này lấy xe máy bị tạm giữ do tham gia đua xe trái phép ra khỏi nơi tạm giữ và không bị xử phạt.

Lãng học chính, dính học thuê

Với nhiều bạn trẻ bây giờ, học hành không đơn giản để thêm hiểu biết lấy kiến thức mà còn là một nghề làm thêm có thu nhập tốt.


Từ học hộ đến học thuê

Khánh, sinh viên khoa Công nghệ thông tin của một trường cao đẳng nhanh chóng làm quen với nghề học thuê ngay từ năm thứ nhất.

Những ngày nghỉ cuối tuần, Khánh hay ở xóm trọ tán gẫu với bạn bè và chơi game, xem phim thâu đêm suốt sáng.

Xóm trọ có anh sinh viên đang học lớp liên thông báo chí của trường thỉnh thoảng lại nhờ Khánh đi học hộ vì bận đi làm.

Ban đầu, vì cả nể, lại vào ngày nghỉ cuối tuần, Khánh nhận lời đi điểm danh hộ. Thấy cậu em nhiệt tình, anh sinh viên này ngỏ ý thuê đi học mỗi buổi với giá là 50 nghìn đồng. Biết Khánh sẽ không dám vì là sinh viên cùng trường nếu bị phát hiện chắc chắn sẽ kỉ luật, anh nhanh chóng thuyết phục rằng, lớp học liên thông thường khá đông; giáo viên dạy đều là những người được mời từ trường khác nên không lo bị phát hiện. Thêm nữa, lớp có mấy người cũng thuê người học từ đầu năm nên cứ đi điểm danh như mọi người là được.

11/12/11

Thẩm phán vào nhà nghỉ 'tư vấn luật' bị đề nghị cách chức

Sau hai tháng bị phát hiện vào nhà nghỉ cùng vợ người khác, thẩm phán Nguyễn Thanh Mộng (Phó Văn phòng TAND tỉnh Cà Mau) bị cảnh cáo về mặt Đảng và đứng trước nguy cơ bị cách chức thẩm phán

Thẩm Phán Nguyễn Thanh Mộng

Trao đổi với VnExpress.net chiều 9/12, lãnh đạo Ủy ban kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan tỉnh Cà Mau cho biết, đã ra quyết định kỷ luật thẩm phán Nguyễn Thanh Mộng, Phó Văn phòng TAND tỉnh Cà Mau bằng hình thức cảnh cáo về mặt Đảng. Về mặt chính quyền, ông Mộng bị đề nghị cách chức thẩm phán.

Theo Ủy ban kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan tỉnh Cà Mau, thẩm phán Mộng đã vi phạm những điều Đảng viên không được làm, gây ảnh hưởng đến uy tính bản thân và ngành tòa án khi bị bắt quả tang vào nhà nghỉ cùng phụ nữ đang có chồng con.

Vài ngày trước, ông Mộng nộp bổ sung bản kiểm điểm cá nhân với nội dung xin từ chức thẩm phán, tự nhận hình thức kỷ luật về mặt Đảng vì nhận ra việc làm sai trái, vi phạm đạo đức lối sống.

9/12/11

Trung Quốc sắp cho giàn khoan khổng lồ hoạt động tại Biển Đông

Tháng Năm vừa qua, Trung Quốc đã khánh thành giàn khoan nước sâu đầu tiên của Tập đoàn Dầu hỏa Ngoài khơi Trung Quốc, tên tắt tiếng Anh là CNOOC. Vào lúc ấy, Bắc Kinh cho biết là giàn khoan khổng lồ này sẽ được đưa vào hoạt động tại Biển Đông ngay từ tháng Bảy. Từ đó đến nay, kế hoạch bị chậm trễ, nhưng sắp được xúc tiến trong một vài tuần lễ tới.



Theo lời một viên chức tập đoàn dầu hỏa Trung Quốc hôm thứ Ba 06/12/2011 vừa qua, được hãng tin Anh Reuters trích dẫn, CNOOC sắp cho khoan một mũi thăm dò dầu khí đầu tiên của họ ở vùng biển nước sâu, tại một khu vực thuộc phía Bắc Biển Đông. Theo hãng Reuters, công việc khoan dò thử tại một khu vực chưa rõ trữ lượng này, đánh dấu bước tiến đầu tiên của tập đoàn Trung Quốc vào lãnh vực khai thác mỏ dầu tại các vùng nước sâu ngoài khơi Trung Quốc.

Viên chức Trung Quốc xác định : “Giàn khoan 981 sẽ bắt đầu công việc vào cuối tháng này hay vào đầu tháng Giêng (2012)”. 981 là ký hiệu của giàn khoan do chính Trung Quốc chế tạo và khánh thành hồi tháng Năm vừa qua, có khả năng hoạt động ở độ sâu 3.000 mét và khoan xuống mức 10.000 mét.

Uy tín của Hội đồng thẩm phán TAND Tối Cao qua 1 vụ án hiếp dâm


Vào ngày 7 tháng 12, Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối Cao đã phán quyết bản án giám đốc thẩm, bác bỏ kháng nghị của Viện Kiểm Sát Nhân dân Tối cao đề nghị tuyên bố vô tội với 3 thanh niên Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Kiên trong vụ án hiếp dâm và cướp của tại Yên Nghĩa Hà Đông.

Gần 11 năm về trước vào đêm 24 tháng 10 năm 2.000 vụ án hiếp dâm cướp của xảy ra tại Yên Nghĩa Hà Đông đã dẫn đến việc bắt giữ ba thanh niên tại làng này qua vật chứng duy nhất là chiếc áo lót bỏ lại hiện trường mà cơ quan điều tra cho là của một trong ba bị cáo, căn cứ vào lời khai có người đã trông thấy họ mặc vào hai năm trước đó.

Có sai Viện kiểm sát cũng phải chịu

Ba thanh niên bị tuyên án sơ thẩm tổng cộng 41 năm tù và trong phiên phúc thẩm, thẩm phán Hoàng Thị Kim Oanh ngồi ghế chủ tọa tuyên giữ nguyên mức án sơ thẩm: Nguyễn Đình Lợi 16 năm tù; Nguyễn Đình Tình 14 năm tù; Nguyễn Đình Kiên 11 năm tù; tổng cộng cho cả hai tội “cướp của” và “hiếp dâm”. Cả 3 bị cáo đồng loạt phản cung, họ tố cáo đã bị dùng nhục hình để ép cung của cơ quan điều tra trong suốt thời gian bị tạm giam. Cả ba thanh niên Lợi, Tình, và Kiên luôn kêu oan, thậm chí họ xin tử hình vì không chịu nỗi sự nhục nhã mà họ không làm.

8/12/11

Blogger Điếu Cày nhập viện?

Tin tức trong cộng đồng mạng hôm qua cho rằng ông Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày, được đưa vào một bệnh viện tại Tp Hồ Chí Minh.

Bà Dương Thị Tân và ông Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày) chụp năm 2004.

Vào tối ngày 07 tháng 12, Gia Minh đã hỏi chuyện bà Dương Thị Tân, vợ cũ của ông Nguyễn Văn Hải về tin đó cũng như một số thông tin liên quan về nhân vật từng biểu tình chống Trung Quốc hồi năm 2008 này và sau đó bị bắt tù về tội trốn thuế, tiếp theo là giam giữ để điều tra về tội tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam. Trước hết bà Dương thị Tân cho biết:

Bà Dương thị Tân: Bạn bè mới thông báo và họ nói có đến bệnh viện tìm nhưng không thấy.

Gia Minh: Họ đến bệnh viện 30/4 có gặp ban điều hành và được trả lời gì không?

Bà Dương thị Tân: Đến giờ này tôi cũng chưa gặp được các bạn đó. Họ chỉ báo vậy thôi. Đến mai chúng tôi mới gặp và tính tiếp, vì từ hồi ông Hải bị bắt đi trở lại đến bây giờ, gia đình chúng tôi không có tin tức gì của ông ấy hết.

7/12/11

Tòa án quốc tế Khmer Đỏ sẽ phán quyết về Ieng Thirith vào tuần sau

Các nạn nhân chế độ Khmer đỏ phải chờ đến ngày 13/12/2011 mới biết rõ là một trong bốn can phạm đang bị truy tố có thoát lưới pháp luật hay không. Bà Ieng Thirith, cựu bộ trưởng xã hội « Kampuchea dân chủ », em vợ của Pol Pot, bị xem là « đã mất trí » không còn đủ sáng suốt để trả lời công lý.

Theo AFP, Tòa án quốc tế xét xử thủ phạm chế độ diệt chủng hôm nay 06/12/2011, thông báo là sẽ công bố quyết định có trả tự do cho can phạm Ieng Thirith hay không.
Cựu bộ trưởng Xã hội Khmer đỏ Ieng Thirith trước tòa

Vào giữ tháng 11, một số thẩm phán cho rằng cựu bộ trưởng xã hội chế độ Khmer đỏ, 79 tuổi, không đủ khả năng trí tuệ để trả lời về các trọng tội gồm tội ác chiến tranh, tội diệt chủng và tội ác chống nhân loại.

Lập luận của các thẩm phán này là can phạm bị mất trí nhớ, có triệu chứng bệnh « điên » và Alzheimer do vậy họ yêu cầu thả bà Ieng Thirith ngay lâp tức. Tuy nhiên , bên Công tố đã kháng cáo.
« Viện tối cao » của Tòa quốc tế thẩm định trong hồ sơ của đương sự có « tình cảnh đặc biệt, phức tạp và hi hữu về các vấn đề pháp định và thực hành ».

Tin khẩn : CA bắt giữ con trai chị Bùi Hằng & bạn bè vì phát thông báo “Tìm mẹ”

Lúc 11:30’ trưa nay, 07/12, con trai của chị Bùi Thị Minh Hằng là anh Bùi Trung Nhân đã bị CA bắt giữ khi đang phát thông báo “Tìm mẹ” mất tích. Ngoài ra, một blogger tại Sài Gòn là anh Trần Hoài Bảo (Facebook Vo Thuong) cũng bị bắt giữ khi đi cùng với Nhân.

Anh Bùi Trung Nhân

Được biết, Bùi Trung Nhân và Trần Hoài Bảo bị CA bắt ngay tại khu vực Ngã 6 Phù Đổng, gần khách sạn New World (Phía đường Phạm Hồng Thái và Nguyễn Nghị Nghĩa - Sài Gòn). Hiện không rõ cả hai đang bị CA giam giữ ở đâu.

Cũng trong sáng nay, tin từ Sài Gòn cho biết : nhiều blogger cũng đã bị CA theo dõi. Đặc biệt là đối với những người từng đi biểu tình chống Trung Quốc hoặc có quen biết với chị Bùi Thị Minh Hằng đều bị sách nhiễu.

‘Thái Hà tuyệt đối không gây rối’

Linh mục Vũ Khởi Phụng, cha bề trên của Giáo xứ Thái Hà, khẳng định giáo dân ở đây tuyệt đối không bạo động và không gây rối trong quá trình đòi đất.
Tên Chiến đến hành hung giáo xứ Thái Hà

Trả lời phỏng vấn BBC sau khi Giáo xứ Thái Hà bị báo chí Hà Nội công kích, ông Phụng cho biết các bài báo chỉ lặp lại những điều mà ông vẫn thường nghe từ chính quyền Hà Nội.

Về cáo buộc của báo An ninh Thủ đô về việc bảo vệ nhà thờ Thái Hà hành hung một người dân phòng, linh mục Phụng cho biết ‘nhà thờ mời ông ấy ra khỏi nhà thờ một cách rất đàng hoàng tử tế’.

‘Xông lên cung thánh’

Ông Phụng cho biết vị dân phòng này đã ‘xông lên cung thánh’ trong một thánh lễ Chủ nhật khoảng hai tuần trước.

Theo báo An ninh Thủ đô thì đội viên dân phòng có tên Mai Quyết Chiến có hẹn với cha Nguyễn Văn Phượng, linh mục chánh xứ Nhà thờ Thái Hà, nhưng chưa kịp gặp thì bị bảo vệ nhà thờ hành hung.
“Ông ấy nói là biết linh mục Phượng nhưng vị linh mục ở bàn thờ không phải linh mục Phượng, vậy mà ông ấy cứ xông lên bàn thờ,” cha Phụng cho biết.

“Tôi hỏi lại linh mục Phượng thì [cha Phượng] bảo không hề có hẹn,” ông nói.

6/12/11

Thư gửi Chủ tịch UBND TP.HCM và UBND TP.HCM


Kính gửi: Chủ Tịch UBND TP Hồ Chí Minh, Ông Lê Hoàng Quân và các ủy viên Ủy ban nhân Dân TP HCM

Thưa ông Lê Hoàng Quân và các bạn,

Chắc quý vị đã biết về sự cố nghiêm trọng mới xảy ra vào chiều và tối ngày 29 tháng 11 năm 2011 tại khu du lịch Văn Thánh của TP HCM.

Ông Hồ Cương Quyết, André Menras đang phỏng vấn vợ một ngư dân mất tích trước ngôi mộ gió ở Bình Châu, Quãng Ngãi

Cụ thể là: lực lượng An ninh của Thành Phố, quận và phường, khoảng gần hai mươi người mặc thường phục đã ra lệnh cấm, ngăn chặn một cách bất ngờ và thô bạo buổi chiếu phim tài liệu « Hoàng Sa Việt Nam: nỗi đau mất mát » của tôi tại Khu Du lịch Văn Thánh.

Hành vi mang tính uy hiếp tinh thần những người bạn của tôi đến xem phim bằng việc quay phim, chụp ảnh và ghi âm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn bị sốc và rất phẫn nộ về hành động này !

Với tư cách là công dân Việt Nam, tôi khẳng định rằng những hành động đó là vi phạm các điều 69 và 77 của Hiến Pháp nước Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa.

Đặc biệt những điều về tự do ngôn luận, báo chí, quyền được thông tin của mỗi công dân.

Nhà tài trợ hối thúc VN tái cơ cấu thị trường tài chính

Trong khi ghi nhận hiệu quả bước đầu của Nghị quyết 11, trong đó có các giải pháp thắt chặt tiền tệ, các nhà tài trợ thúc giục Việt Nam sớm cụ thể hoá mục tiêu tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại.




Nông và hẹp 

Tại phiên thảo luận chuyên đề này tại Hội nghị CG ngày 6.12, các nhà tài trợ chỉ ra chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ thời gian qua có tác dụng giảm lạm phát nhưng lại gây khó khăn cho các ngân hàng và doanh nghiệp. Các biện pháp hành chính, dù tỏ ra hữu ích trong ngắn hạn, đã để lại những hậu quả không mong muốn, ví dụ quy định trần lãi suất lại cản trở dòng chảy thanh khoản của một số ngân hàng.

Hệ thống tài chính của Việt Nam cũng bị đánh giá là "nông và hẹp", tập trung phần lớn vào các ngân hàng quốc doanh, trong khi các định chế tài chính phi ngân hàng chưa phát triển hoàn thiện. Các đối tác quốc tế đồng tình rằng tái cấu trúc hệ thống tài chính là một nhiệm vụ lâu dài và phức tạp, đòi hỏi một lộ trình thận trọng, toàn diện tới mọi nhân tố, từ các doanh nghiệp nhà nước, thị trường vốn đến khu vực ngân hàng.
 
Giám đốc Ngân hàng TG (WB) tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa trước đó cũng nhận định một thực trạng, đó là: "Các ngân hàng Việt Nam hiện đang không có đủ vốn để cho vay, trong khi đó tỉ lệ nợ xấu và mức độ rủi ro tăng, ảnh hưởng đến nền kinh tế. Cải cách khu vực này là phải giải quyết các vấn đề mang tính cơ cấu, làm sao để hệ thống ngân hàng Việt Nam có đủ vốn, đáng tin cậy, hoạt động nghiêm túc, giảm nợ xấu và các nguy cơ rủi ro được quản lý trên các cơ sở vững chắc".

Giám sát rủi ro

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng: Bao nhiêu tiền cho vừa, bao nhiêu quyền cho đủ?

Sau đại hội đảng cộng sản Việt Nam tháng 1 năm 2011, khi ông Nguyễn Tấn Dũng được tiếp tục giữ chức thủ tướng nước CHXHCNVN, các nhân viên ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội có nói, "Lần này ông Dũng hình như đã thu vén được tất cả những quyền lực mà ông có thể, và ông ấy có tiềm năng trở thành một nhà độc tài không ai kiểm soát nổi!"



Thật đúng như thế, sau khi ông Lê Hồng Anh, cựu bộ trưởng công an, trở thành thường trực ban bí thư bộ chính trị đảng CSVN, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh (anh em cùng cha khác mẹ với ông Dũng) trở thành ủy viên trung ương đảng, và con trai là Nguyễn Thanh Nghị trở thành ủy viên dự khuyết trung ương đảng thì người Hà nội đã nói với nhau rằng, "ông ấy nắm công an, quân đội, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước thì có còn lãnh vực nào khác cho ai đâu?"

Việc nắm các tập đoàn kinh tế vốn kinh doanh thua lỗ khủng khiếp nhưng không ai chịu trách nhiệm dù ông thủ tướng là người có trọn quyền thành lập, bổ nhiệm nhân sự, nhưng trách nhiệm... lại thuộc tập thể nên cả bộ chính trị đã không kỷ luật cá' nhân, tổ chức nào trong vụ lỗ, phí phạm hơn 86.000 tỷ đồng, tương đương hơn 4 tỷ đô la Mỹ, gần 5% GDP của Việt Nam năm 2010. Rốt cục, người dân Việt còm cõi sẽ phải còng lưng lao động để trả nợ cho số tiền đã vào túi và các tài khoản ngân hàng nước ngoài của ông phe Dũng và đàn em. Hiện nay cũng có các chỉ dấu cho thấy các tập đoàn dầu khí, điện, than khoáng sản, v.v. cũng nợ nần khủng khiệp nhưng mọi số liệu chính xác đều bị ém nhẹm và báo đài thì bị bịt mồm, cấm đăng tất cả những gì bị cho là "nhạy cảm."

Phải chăng cách mạng đến từ đây?

Cách mạng là của quảng đại quần chúng? Đúng. Của công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị? Đúng. Của tầng lớp trí thức yêu nước và dám dấn thân? Đúng. NHƯNG, "Cách Mạng" còn của CHÍNH NGAY bộ phận giới trẻ như thế này đây. Chính họ - đúng vậy, chính họ - một bộ phận KHÔNG THỂ THIẾU ĐƯỢC cho cuộc cách mạng. Phải chăng cách mạng xuất phát từ một phần chính là đây??? Như người viết bài đã từng nhận định về vai trò "Người của công chúng" ở phần 3"Việt Nam nhất định có cách mạng sớm, nếu...".



HÃY HƯỚNG ĐẾN NHỮNG NAM THANH NỮ TÚ NÀY! CẦN PHẢI HƯỚNG ĐẾN CHÍNH HỌ! CHÍNH TẦNG LỚP NÀY SẼ GÓP PHẦN LỚN DẪN DẮT CÁCH MẠNG THÀNH CÔNG TRONG HÒA BÌNH. Tôi cam đoan như vậy! Dường như, những chàng trai, cô gái này bị bỏ quên quá lâu rồi trong suy tư, trong đường lối hành động cho cách mạng ?!

Nếu bạn chưa tin cách mạng có thể đến từ TẦNG LỚP TRẺ NÀY, thì xin hãy lắng lại trong 5 phút, vâng chỉ 5 phút thôi! Hãy cùng lắng nghe và chiêm ngưỡng đoạn video clip này rồi chúng ta sẽ cùng nhau nói câu chuyện "cách mạng". Câu chuyện "CÁCH MẠNG THỜI HIỆN ĐẠI".

Vâng! Cách mạng không máu đổ, không súng ống và không rên xiết. Một cách mạng trong hòa bình, trong lời ca hừng hực lửa nhiệt tình lại không đẫm máu. Một chất men Cách mạng có sức lôi cuốn không cưỡng lại được mà không mang sắc thái cực đoan, quá khích. Rõ là không cớ gì, chỉ trong 3 ngày thôi, họ đã lôi cuốn đến NHỮNG SÁU MƯƠI SÁU NGÀN LƯỢT NGƯỜI XEM VÀ MỘT TRĂM TRANG COMMENT! Có phải cách mạng cần số đông? Có phải bao lâu nay, biết bao nhiêu nhân sĩ tên tuổi, nhiều tổ chức chính trị vẫn chưa làm được sự vẫy gọi đoàn kết trong HÒA BÌNH & YÊU THƯƠNG? HỌ - LỚP TRẺ NÀY ĐÂY - đã làm được và làm rất ngon lành! Cớ gì không bảo đảm điều kiện cho họ tiếp tục làm? Phải bảo đảm điều kiện cho họ tiếp tục làm.

5/12/11

Tình trạng vô pháp luật ở Việt Nam hiện nay: Căn nguyên và thách thức cho bản Hiến pháp mới

Trong nhiều niềm hạnh phúc và quyền tự do khác mà các thần dân của Bệ hạ… được hưởng… không gì mà họ coi là quý giá và đáng trân trọng hơn điều này – được dẫn dắt và chi phối bởi một hình thái pháp trị chắc chắn… chứ không phải bởi bất kỳ một chính thể bất trắc và độc đoán nào. (Trích Thỉnh Nguyện Thư của Hạ Viện Anh gửi Vua James I, ngày 7/7/1610.) [1]

Quan sát tình hình đất nước trong nhiều năm qua, người ta hẳn sẽ dễ dàng đi đến nhận định rằng xã hội Việt Nam đang ngày càng rơi vào tình trạng vô pháp luật. Từ Kết luận của Bộ Chính trị là không xử lý kỷ luật một ai trong vụ Vinashin [2] cho đến hình ảnh các chiến sỹ cảnh sát giao thông qua loạt bài Nhức nhối nạn mãi lộ: Ghê hơn cướp cạn [3] của báo Tuổi Trẻ; từ vấn nạn chạy chức, chạy quyền, chạy dự án… cho đến tình trạng chen lấn xô đẩy, chạy ngang chạy tắt trên các đường phố ở các đô thị đông đúc; từ các vụ bắt bớ người biểu tình ôn hoà một cách tuỳ tiện ngay giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến cho đến các vụ quan tỉnh, quan huyện gây ra bao cái chết oan uổng cho những người dân vô tội; [4] từ chuyện ông Chủ tịch Hội đồng Thành viên Vinashin “dám” phớt lờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng trong vụ mua tàu Hoa Sen [5] cho đến các vụ khiếu kiện vượt cấp diễn ra trên khắp mọi tỉnh thành, v.v., thảy đều minh chứng cho nhận định đó. Điều đáng nói là với cơ chế kiểm duyệt báo chí ngặt nghèo ở Việt Nam, những hiện tượng mà báo chí đưa tin công khai như thế mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, và tình hình xem ra đã đến hồi vô phương cứu chữa. 
Pháp luật là một cơ chế cưỡng bách của xã hội, bao gồm các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội. Pháp luật do những người đại diện chính trị, vốn được lựa chọn thông qua một quy trình chính trị, soạn ra và áp đặt từ trên xuống. (Chẳng hạn như ở Việt Nam, Quốc Hội soạn thảo Hiến pháp và các đạo luật; Chính phủ, các bộ ngành và các tỉnh thành ban hành các văn bản dưới luật; các đạo luật và văn bản dưới luật này được áp đặt và giám sát việc thực hiện bởi một bộ máy cưỡng bách từ trên xuống gồm lực lượng Công an cùng hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân và Toà án Nhân dân.) Chính vì thế, một khi hệ thống pháp luật của một quốc gia có vấn đề thì điều đó có nghĩa là vấn đề ấy bắt nguồn từ trên xuống, chứ không phải là từ dưới lên. Ông cha ta thường nói “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” hay “Nhà dột từ nóc” là vì vậy. 

Blogger Người Buôn Gió bị côn đồ rượt đuổi

Hôm qua, Chúa Nhật 4/12/2011, Bùi Thanh Hiếu blogger Người Buôn Gió bị “côn đồ” rượt đuổi một cách ngoạn mục tại khu vực nhà thờ Thái Hà. Xã hội Việt Nam thời nay công an chìm được tung ra làm côn đồ. Không thể phân biệt đâu là côn đồ xã hội và đâu là côn đồ công an. Chỉ có dân lành là nạn nhân của cả hai loại con đồ này. Dưới đây là tường thuật của anh. 



Lúc 11 giờ trưa nay, vừa đi ra khỏi thấy bóng của đuôi, chạy xe rõ nhanh đằng sau tiếng xe sát sàn sạt. Không cần ngoái lại nghe tiếng còi xe ầm ĩ ráo riết cũng biết, chạy ngược lại về nhà thờ. Một tên chặn lên ngang xe quát đứng lại.


Mình bẻ ngoặt lái, quay đầu xe phi vòng công viên 1-6 về nhà thờ, suýt đâm vào bà đồng nát. 4 tên phục sẵn lao ra thì mình đã vào sân nhà thờ, hôm nay lễ chủ nhật đông. Mình vào cổng 3 mét dựng xe, hai bên nhìn nhau qua cái cổng mở rộng. Hội chúng gọi điện thêm người đến.


Hiện nay mình đã trèo tường nhà thờ ra đằng sau đến nơi tạm ẩn, lát nữa đi về đâu tính tiếp.


Thân ái gửi lời chào đến các bạn hữu, nếu không liên lạc được bằng điện thoại, xin đừng bận tâm. Mọi cái đều có số phận.


Nếu có gì , xin các bạn quan tâm đến Tí Hớn trong những ngày vắng bố.


http://www.chuacuuthe.com/vietnam-news/blogger-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-buon-gio-b%E1%BB%8B-con-d%E1%BB%93-r%C6%B0%E1%BB%A3t-du%E1%BB%95i/

4/12/11

UBND xã Khánh Bình xin lỗi người bị công an đánh

Nhà chức trách xác định không có việc côn đồ xông vào trụ sở công an xã hành hung anh Toản mà một công an viên đã thượng cẳng chân hạ cẳng tay với công dân này.

> 'Côn đồ xông vào trụ sở công an đánh dân'

Ngày 2/12, UBND xã Khánh Bình, huyện Tân Uyên (Bình Dương) đã tổ chức công khai xin lỗi anh Trương Công Toản (40 tuổi, quê Nghệ An) về việc bị công an đánh ngay tại trụ sở.

Theo tố cáo của anh Toản, chiều 26/10, do hiểu nhầm, nhiều công nhân tại công trình Việt Phát (xã Khánh Bình) xảy ra xô xát. Công an xã đã xuống hiện trường và mời mọi người về trụ sở giải quyết.


Lúc lấy lời khai, anh Toản bị một người mặc áo công an xã, và một người mặc áo trắng đánh đến té ngửa, đập đầu vào tường làm máu chảy ướt áo. Dù van xin nhưng anh vẫn bị đánh đến ngất xỉu.

3/12/11

Khó tiếp cận, các hãng lớn rời Việt Nam


"Nếu Việt Nam không nhanh chóng đổi mới và cải thiện môi trường kinh doanh, các hãng lớn sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh tại Indonesia, Thái Lan,... chứ không ở lại đây", Chủ tịch EuroCham Alain Cany nhận định.

Sách Trắng 2012 - "Các vấn đề Thương mại - Đầu tư và kiến nghị" - được công bố tại họp báo sáng 1/12/2012, về tổng quan cho thấy một số ít sự cải thiện trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam năm 2011, một phần do tiến trình bầu cử diễn ra quá dài, sự bất ổn nền kinh tế vĩ mô và đặc biệt do các gánh nặng pháp lý mới và những hạn chế về thương mại.

Trong khi các doanh nghiệp châu Âu kiên nhẫn và hy vọng rằng môi trường kinh doanh tại Việt Nam sẽ được cải thiện, thì rõ ràng, lòng tin của DN châu Âu với Việt Nam đã có chiều hướng giảm mạnh từ đầu năm 2011.

Một trong các nguyên nhân rõ nhất có thể thấy là, tỷ lệ lạm phát cao kèm theo khó khăn trong tiếp cận tín dụng, thiếu đồng bộ trong cơ sở hạ tầng và các gánh nặng về thủ tục hành chính vẫn là trở ngại lớn với DN châu Âu khi vào thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, một loạt các vấn đề mới liên quan đến "tiếp cận thị trường" ảnh hưởng đáng kể đến nhập khẩu hàng hóa vào VN đã tiếp tục ảnh hưởng đến suy nghĩ của châu Âu về môi trường kinh doanh tại Việt NAm, Sách Trắng 2011 nêu rõ.

2/12/11

Giáo dân, tu sĩ, linh mục Thái Hà lại xuống đường đòi Công lý, Sự thật

Trước sự trắng trợn cướp đoạt Tu viện DCCT Thái Hà, bất chấp Hiến pháp và Pháp luật quy định nhằm biến Tu viện thành một cơ sở bị mượn thành chiếm đoạt vĩnh viễn. Giáo dân Thái Hà đã phản ứng mạnh mẽ bằng nhiều cách.


Trước đó, đã có cuộc xuống đường ngoạn mục của giáo dân Thái Hà đưa đơn lên UBND Thành phố Hà Nội. Cuộc xuống đường đẹp mắt, trật tự và đông đúc đó đã cho cả Hà Nội nhận rõ bộ mặt cướp bóc vô lý của nhà cầm quyền Hà Nội.

Hôm nay, Giáo dân, tu sĩ và linh mục Thái Hà lại xuống đường. Nữ Vương Công Lý sẽ cập nhật các tin tức về cuộc xuống đường này.


Những đoàn giáo dân từ Thái Hà và các giáo xứ tập trung về trung tâm Thành phố Hà Nội, tượng đài Lý Thái Tổ:

Transparency International:Việt Nam không có tiến bộ đáng kể chống tham nhũng

Ngày hôm nay, 01/12/2011, từ Berlin, tổ chức Transparency

International-Minh bạch Quốc tế-cho công bố “Chỉ số cảm nhận tham nhũng 2011”, liên quan đến 183 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới.Transparency International nhận định rằng chỉ số xếp hạng và điểm của Việt Nam trong năm 2011cho thấy tham nhũng vẫn là mối lo ngại chính đối với đất nước này và từ năm ngoái đến nay, không có những thay đổi đáng kể nào trong cuộc chiến chống tham nhũng.

Theo Transparency International, bản “Chỉ số” cho thấy một số chính phủ đã thất bại trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nhiều cuộc biểu tình lớn trên thế giới “thường được châm ngòi từ tình trạng tham nhũng và bất ổn về kinh tế”. Điều này cho thấy rõ ràng là “người dân cảm thấy các nhà lãnh đạo và thể chế công của họ thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình”.

Bà Bùi Hằng đã bị chuyển ra Hà Nội

Theo thông tin được xác nhận của Hãng hàng không quốc gia, thì hành khách Bùi Thị Minh Hằng đã bay chuyến bay khởi hành từ Sài Gòn đi Hà Nội lúc 10:30, ngày thứ hai, 28.11.2011.



Facebooker Lặng Lẽ cho biết: “Kỳ Phạm nói: Chị Hằng được công an áp giải từ HCM đến HN trên chuyến bay 10:30 của VNA. Mình cũng bay chuyến này. Chỉ kịp nhận ra giọng của chị Hằng khi máy bay dừng ở Nội Bài, hành khách đứng dậy lấy hành lý & công an kéo chị từ ghế ngồi cuối cùng ra phía cửa sau máy bay”.

Facebooker này đặt câu hỏi biểu cảm về cách hành xử mờ ám của ông an Hồ Chí Minh: “Đường đường chính chính chứ tại sao phải lén lút !?”

Trước đó, một facebooker trẻ khác là Gió Lang Thang nói về bà Bùi Hằng như sau: “Suốt cả cuộc đời con sẽ không bao giờ quên giọng nói đầy khí phách của má, khi má vô công an phường Bến Nghé đòi người. Ở trên tầng 3 con còn nghe rõ mồn một, con sẽ không bao giờ quên ánh mắt má dõi theo con khi con bị đẩy lên xe lôi về phường. Mãi mãi, cho đến khi con có thể còn thở nữa”. Đó là một tình cảm đặc biệt của một người trẻ bị đối xử bất công dành cho một người dấn thân cứu họ khỏi bất công.

1/12/11

Đừng đổ lỗi ý thức người dân kém dẫn tới tắc đường!

Đừng đỗ lỗi cho ý thức người tham gia giao thông kém nên mới dẫn tới ùn tắc giao thông. 99% xung đột xe xảy ra người điều khiển phương tiện đều không có mâu thuẫn, xích mích với nhau, và người tham gia giao thông đều chấp hành rất tốt chỉ đạo của lực lượng kỹ sư”.

PGS.TS Doãn Minh Tâm, Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ GTVT (Viện KH&CNGT) cho biết sau khi đưa kỹ sư ra đường điều hành tổ chức giao thông.




Đánh giá sau khi kỹ sư ra đường điều hành giao thông, ông Tâm cho biết, tình hình xe qua nút đã được kiểm soát, giảm thiểu được ùn tắc.

Cụ thể, thời gian xe chờ qua nút chỉ còn khoảng 10 giây theo hướng chính và 20 giây theo hướng phụ, không xảy ra tình trạng rối loạn dòng xe, và cũng không xảy ra va chạm giữa những người tham gia giao thông.



Theo khảo sát của Viện KH&CNGT cho thấy, năng lực thông xe đường Láng vẫn chưa quá tải, khi khả năng đáp ứng vào giờ cao điểm vẫn bình thường, còn giờ thấp điểm xe cộ đi lại thoải mái

Chưa xác định "tàu lạ' đâm tàu ngư dân

Ban chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Ngãi xác nhận với BBC về sự cố đâm chìm tàu xảy ra sáng 28/11 tại vùng biển phía Nam.


Nhưng giới chức không cho biết rõ đây là tàu nước nào.


“Trong báo cáo của Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Ngãi cho hay, tàu này đã bị một tàu lạ đâm chìm,” một đại diện nói.

Tàu cá bị đâm chìm mang biển hiệu QNg-94094 do ông Mai Xuân Thủy, trú tại xã Phổ Châu, tỉnh Quảng Ngãi làm chủ.

Ban chỉ huy phòng chống lụt bão tỉnh cho biết 11 người trên tàu đã được cứu vớt an toàn. Tuy nhiên nỗ lực cứu vớt tàu cá của ông Thủy đã không thành công, mặc dù đã có sự trợ giúp của nhiều tàu cá khác.

Tàu lạ?

Trong thời gian gần đây, báo chí trong nước cho hay nhiều sự cố tàu cá của ngư dân bị “tàu lạ” đâm gây thiệt hại hàng trăm triệu đồng.

Tội cho hai chữ “biểu tình”!

“Tội cho hai chữ “biểu tình”. Nó có tội vạ gì. Nước ta là một nước dân chủ. Nhưng một Quốc hội dân chủ thì nghị sĩ không cần phải nói khéo. Cũng như một quốc gia dân chủ thì người dân không phải coi cái gì là tế nhị, nhạy cảm”- GS TS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu QH các khóa XI, XII trả lời PV.
GS TS Nguyễn Minh Thuyết

Đại biểu phải quen với sinh hoạt dân chủ

PV: Xin bắt đầu bằng cuộc tranh luận nảy lửa trên diễn đàn QH xung quanh dự án Luật Biểu tình. Thưa ông, vì sao cũng là đại diện cho nhân dân mà các đại biểu lại có những ý kiến hoàn toàn ngược nhau liên quan đến một quyền cơ bản của công dân như vậy?


GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Đại biểu QH (ĐB) là đại diện cho nhân dân và những phát biểu của họ tại QH phải nói lên tiếng nói của người dân. Nhưng nhân dân là một tập hợp đa dạng, và hiểu được dân để nói đúng ý dân là điều không dễ. Khi ĐB nói những điều phù hợp với lợi ích của đông đảo nhân dân thì dù họ có khiêm tốn nói đó là ý kiến cá nhân, người dân vẫn đồng tình. Ngược lại, dù ĐB có tự khẳng định là mình nói thay cho đại bộ phận nhân dân mà nội dung ý kiến không phù hợp với lợi ích của người dân thì cũng không được người dân tán thành. Trong trường hợp tranh luận về Luật Biểu tình, tôi cho rằng ĐB Hoàng Hữu Phước đã ngộ nhận ý kiến mình đại diện cho nhân dân. Ngay sau cuộc tranh luận tại QH, một trang mạng nổi tiếng đã tổ chức thăm dò và kết quả là có tới 98% ý kiến đồng ý ban hành Luật Biểu tình. Từ Hiến pháp năm 1946, quyền này đã được nói tới dưới hình thức quyền hội họp. Đến Hiến pháp 1959, biểu tình đã được coi là quyền hiến định. Biểu tình là quyền cơ bản của con người và chính nhờ những cuộc biểu tình như thế, Chính phủ mới biết được lòng dân mà điều chỉnh hành vi của mình.

Hiến Pháp Việt Nam




QUỐC HỘI

Số: Không số

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Ngày 15 Tháng 04 năm 1992

HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NĂM 1992

LỜI NÓI ĐẦU


Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.

Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.
Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.

Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.

Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



CHƯƠNG I
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Điều 1
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.

Điều 2
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.

Điều 3
Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Điều 4
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Điều 5
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

Điều 6
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều 7
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Điều 8
Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.

Điều 9
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.

Điều 10
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 11
Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.

Điều 12
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Điều 13
Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật.

Điều 14
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

CHƯƠNG II
CHẾ ĐỘ KINH TẾ

Điều 15
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.

Điều 16
Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.

Điều 17
Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 18
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.

Điều 19
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.

Điều 20
Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.

Điều 21
Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.

Điều 22
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

Điều 23
Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá.
Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường.
Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.

Điều 24
Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Điều 25
Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.

Điều 26
Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.

Điều 27
Mọi hoạt động kinh tế, xã hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm.

Điều 28
Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng.

Điều 29
Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường.

CHƯƠNG III
VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

Điều 30
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.

Điều 31
Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới.

Điều 32
Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam.
Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.
Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng.

Điều 33
Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.

Điều 34
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh.
Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh.

Điều 35
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 36
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác.
Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.
Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

Điều 37
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.

Điều 38
Nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh.

Điều 39
Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ.
Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số.
Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân.

Điều 40
Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.

Điều 41
Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.

Điều 42
Nhà nước và xã hội phát triển du lịch, mở rộng hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế.

Điều 43
Nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao.

CHƯƠNG IV
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Điều 44
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.

Điều 45
Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước.

Điều 46
Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Điều 47
Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.

Điều 48
Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.

CHƯƠNG V
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Điều 49
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

Điều 50
ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.

Điều 51
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.

Điều 52
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 53
Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Điều 54
Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 55
Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Điều 56
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động.
Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.

Điều 57
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Điều 58
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Điều 59
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.
Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.
Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng.
Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp.

Điều 60
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.

Điều 61
Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng.
Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.

Điều 62
Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật.

Điều 63
Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.

Điều 64
Gia đình là tế bào của xã hội.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.

Điều 65
Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.

Điều 66
Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 67
Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định.
Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.
Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.

Điều 68
Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.

Điều 69
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Điều 70
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Điều 71
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.

Điều 72
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Điều 73
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.

Điều 74
Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Điều 75
Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Điều 76
Công dân phải trung thành với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

Điều 77
Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

Điều 78
Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.

Điều 79
Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

Điều 80
Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.

Điều 81
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.

Điều 82
Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình, hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.

CHƯƠNG VI
QUỐC HỘI

Điều 83
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Điều 84
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5- Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước;
6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
7- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
8- Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
10- Quyết định đại xá;
11- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
12- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước;
14- Quyết định việc trưng cầu ý dân.

Điều 85
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.

Điều 86
Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.

Điều 87
Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.
Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định.

Điều 88
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 7, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội quy định tại Điều 85 và sửa đổi Hiến pháp quy định tại Điều 147, thì phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua.

Điều 89
Quốc hội bầu Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội.

Điều 90
Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội;
- Các Phó Chủ tịch Quốc hội;
- Các ủy viên.
Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới.

Điều 91
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
2- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
4- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
7- Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
8- Trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
9- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn quyết định đó tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
10- Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
11- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
12- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.

Điều 92
Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch.

Điều 93
Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét lại.

Điều 94
Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên.
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.
Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại Điều 95.
Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.

Điều 95
Quốc hội bầu các Uỷ ban của Quốc hội.
Các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vị hoạt động của Uỷ ban.
Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.

Điều 96
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức Nhà nước hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.

Điều 97
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.

Điều 98
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định.

Điều 99
Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội.
Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.

Điều 100
Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.
Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.

CHƯƠNG VII
CHỦ TỊCH NƯỚC

Điều 101
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

Điều 102
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới.

Điều 103
Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
2- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh;
3- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
4- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
5- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá;
6- Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
7- Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và điểm 9, Điều 91 trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
8- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
9- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
10- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định;
11- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
12- Quyết định đặc xá.

Điều 104
Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên.
Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt.
Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.

Điều 105
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ.

Điều 106
Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Điều 107
Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ.

Điều 108
Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.
Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới.

CHƯƠNG VIII
CHÍNH PHỦ

Điều 109
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Điều 110
Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ.

Điều 111
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.

Điều 112
Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.

Điều 113
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.

Điều 114
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;
5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết.

Điều 115
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

Điều 116
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở.

Điều 117
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.

CHƯƠNG IX
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN

Điều 118
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định.

Điều 119
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.

Điều 120
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước.

Điều 121
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước.

Điều 122
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.

Điều 123
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Điều 124
Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.

Điều 125
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

CHƯƠNG X
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Điều 126
Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

TOÀ ÁN NHÂN DÂN

Điều 127
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 128
Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân các cấp do luật định.

Điều 129
Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 130
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Điều 131
Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

Điều 132
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Điều 133
Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.

Điều 134
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó.

Điều 135
Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.

Điều 136
Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Điều 137
Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.

Điều 138
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định.
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Điều 139
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Điều 140
Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.

CHƯƠNG XI
QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC CA
THỦ ĐÔ, NGÀY QUỐC KHÁNH

Điều 141
Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

Điều 142
Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 143
Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân ca".

Điều 144
Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.

Điều 145
Ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945 là ngày Quốc khánh.

CHƯƠNG XII
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

Điều 146
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Điều 147
Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
----------------------------------
Bản Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nan khoá VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1992, hồi 11 giờ 45 phút.


QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
(Đã ký)


NÔNG ĐỨC MẠNH

Facebook Twitter Stumbleupon More