Giới Thiệu

Blog Luật của Sự Thật là một trang blog đăng tải các tin tức bài vỡ liên quan đến những sự kiện bất công, lạm dụng luật pháp hiện đang xảy ra tại Việt Nam.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 1

Xin nhấn vào đây để đọc tập 1 về quyền biểu tình.

Chân dung ông Nguyễn Đức Kiên

Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 2

Xin nhấn vào đây để đọc tập 2 về quyền hội họp, lập hội, lập đảng.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 3

Xin nhấn vào đây để đọc tập 3 về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư Vấn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư Vấn. Hiển thị tất cả bài đăng

13/6/13

Tư Vấn Pháp Luật; Cách tính lương tăng ca như thế nào?

NguyenNhatTuan

LS. ThS Nguyễn Nhật Tuấn

Kính thưa Luật Sư!
Em nghe nói kể từ ngày 1/5/2013 sẽ áp dụng tính lương tang ca lam thêm giờ như sau:
- Tăng ca ngày thường: 200%
- Tăng ca ngày chủ nhật : 300%
- Tăng ca ngày lễ, tết: 400%
Nhưng em không thấy trong Luật Lao động 2012 sửa đổi bổ sung ap dụng từ 1/5/2013. Xin Luật sư cho em biết là thông tin trên có đúng không ạ? Em cảm ơn!


Re: Cách tính lương tăng ca như thế nào?

Chào bạn
Thông tin bạn có là không chính xác mà chính xác là như thế này nhé:
Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;
c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
Bạn cẩn thận với những thông tin ko chính thức nhé
Thân
Luật sư, Thạc sỹ Luật học NGUYỄN NHẬT TUẤN
Thành viên Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh
ĐT liên hệ: 0913.623.699
Email: nguyennhattuan71@yahoo.com
Nhận thực hiện các dịch vụ tư vấn pháp luật, tham gia tranh tụng với vai trò Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự, Luật sư bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ án dân sự (kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình, thừa kế, tranh chấp đất đai, tài sản...) hay đại diện theo ủy quyền cho các cá nhân, tổ chức theo đề nghị với chi phí thỏa thuận, hợp lý.

1/6/13

Cty vốn đầu tư nước ngoài chuyên về đá tự nhiên có thể nhập khẩu đá nhân tạo được không?

LUATSUNGUYEN

Luật sư: NGUYỄN VĂN NGUYÊN


Cty vốn đầu tư nước ngoài chuyên về đá tự nhiên có thể nhập khẩu đá nhân tạo được không?

Cty em là công ty 100% vốn nước ngoài, trên giấy chứng nhận đầu tư thể hiện ngành nghề là sàn xuất các loại đá xây dựng  ( như đá hoa, đá granite, đá phiến). Cty em có nhu cầu nhập khẩu đá nhân tạo ( ceramic granite) có hợp lệ ko?

Re: Cty vốn đầu tư nước ngoài chuyên về đá tự nhiên có thể nhập khẩu đá nhân tạo được không?
Để trực tiếp kinh doanh và nhập khẩu các mặt hàng đá tự nhiên và nhân tạo thì công ty bạn phải điều chỉnh giấy phép đầu tư kinh doanh và có chức năng nhập khẩu các hàng hóa trên. Trường hợp vì nhu cầu kinh doanh, hoạt động sản xuất thì công ty bạn có thể ký hợp đồng ủy thác nhập khẩu đối với các mặt hàng trong diện được kinh doanh đối với công ty có chức năng nhập khẩu.

đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất


luuhaivu

Lưu Hải Vũ


đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất
 
Tôi có chút vướng mắc trong thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mong luật sư tư vấn giúp như sau:
Tôi đang sử dụng 2000m2 đất trồng cây lâu năm nguồn gốc do tôi nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Minh Nhật vào năm 2007 chỉ lập giấy tờ viết tay. Nguồn gốc đất của ông Nhật là do ông mua của ông Đặng Văn Mới vào năm 1996 cũng chỉ lập giấy tờ viết tay có 2 người làm chứng. Khi tôi mua hỏi ông nhật thì ông Nhật nói là chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên đến năm 2012 tôi đi đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì UBND xã bảo tôi là thửa đất số 236 tờ bản đồ số 3 đã được cấp giấy cho ông Đặng Văn Mới vào năm 1994 diện tích cấp giấy 1910m2 trong đó có 400m2 đất ở nông thôn và 1510m2 đất trồng cây lâu năm. và đề nghị tôi mang giấy chứng nhận đó lên để thực hiện thủ tục. Nhưng ông Đặng Văn Mới đã chết, ông Nhật là người chuyển nhượng cho tôi nói là từ trước tới nay ông chưa thấy giấy chứng nhận cấp cho ông Mới. Hiện nay giấy chứng nhận đó tôi không biết ở đâu. Vậy tôi phải thực hiện thủ tục như thế nào để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mong luật sư tư vấn giúp.

Re: đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất

Chào bạn! Với những thông tin nội dung bạn cung cấp tôi tư vấn cho bạn như sau:
Theo quy định tại Điều 24 Nghị định882009/NĐ-CP như sau:
Điều 24. Cấp lại Giấy chứng nhận do bị mất
1. Người đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận, hồ sơ gồm:
a) Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận;
b) Giấy tờ xác nhận việc mất Giấy chứng nhận của công an cấp xã nơi mất giấy;
c) Giấy tờ chứng minh đã đăng tin mất Giấy chứng nhận trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương (trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn) đối với tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; trường hợp hộ gia đình và cá nhân thì chỉ cần có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc đã niêm yết thông báo mất giấy tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã;
2. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất kiểm tra hồ sơ; trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký quyết định hủy Giấy chứng nhận bị mất, đồng thời cấp lại Giấy chứng nhận mới; trao Giấy chứng nhận cho người đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận.
Căn cứ quy định viện dẫn trên bạn yêu cầu ông Nguyễn Minh Nhật làm thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bị mất. Sau đó tiến hành các thủ tục chuyển nhượng lại thửa đất trên cho bạn và bạn hoàn thành thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng thửa đất nêu trên!

24/5/13

Tư Vấn Luật Pháp - Vay tiền

LCST: Thưa các bạn, có một số bạn đọc gửi thắc mắc về pháp luật Việt Nam, chúng tôi rất hân hạnh đón nhận và cố gắng đưa ra câu trả lời, giải thích chính xác nhất có thể được. Mong đón nhận được những ưu tư của các bạn để chúng ta cùng đóng góp ý kiến chung, hầu giúp đỡ nhau hiểu rõ hơn những luật lệ hiện hành.
 
Chúng tôi nhận được câu hỏi của bạn S.A.P sau đây:


Em có cho 1 người mượn số tiền là 50 triệu đồng. trong Hợp đồng vay tiền có 2 dòng ghi " Chỗ Ở Hiện Tại " và " Nơi Đký Hộ khẩu thường trú " .Chỗ ở h.tại lúc này người đó vay là chỗ trọ ở q. TP. tp. hcm. còn nơi Đký HKTT là ở q. BT, đây là nhà cha mẹ ,còn người này chuyển ra ngoài ở trọ đã lâu. Em cho người này mượn trong vòng 3 tháng, phương thức trả tiền và thời hạn vay đều được ghi rõ trong hợp đồng. người này vay từ 1 năm trước, đến nay đã quá hạn trả tiền đã lâu nhưng người này lại cố ý ko trả, có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm, đổi chổ ở liên miên và cắt liên lạc. khi em viết đơn kiện gửi lên Tòa án q. BT thì họ nói đ/chỉ ghi trong Hợp đồng có ghi chỗ ở h.tại là ở bên TP. vậy phải nộp đơn bên q.TP. Khi em nộp đơn lên tòa án q. TP thì bên này nói đ/c ghi trong Hợp đồng là đ/chỉ ảo, ko có thật . có nghĩa là đ/chỉ Chỗ ở H.tại do người này ghi cho tôi bên q. TP là ko có thật. còn đ/chỉ ghi nơi Đký HKTT do em tự tìm hiểu tự ghi vào Hợp đồng thì đ/c này có thật. Tòa án q. TP nói vậy là ngay từ đầu người này đã cố tình lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của em. bảo em viết đơn tố cáo và nộp bên cơ quan C.A Phường hoặc quận BT, nhưng khi em đến cơ quan C.A Phường thì họ nói vì em ko giao tiền và ko có người làm chứng là đã giao tiền cho người kia bên phường và quận của họ nên họ ko tiếp nhận đơn tố cáo của em.

Hiện giờ em đang rât rối. ko biết phải làm sao ? gần đây bạn bè em có nói người này vì lừa gạt nhiều người quá nên đã bị bắt gần 2 tháng nay. nhưng bị bắt và giam ở đâu thì chưa rõ. chỉ biết là trong phạm vi tp. HCM. Rất Mong A/C Luật sư có thể tư vấn cho em để em có thể biết tiếp theo mình phải làm gì. Trân trọng cảm ơn rất nhiều.!!

Tư vấn:

Vì người vay tiền đã bị bắt nên có khả năng các cơ quan tố tụng đã áp dụng biện pháp kê biên tài sản của họ để phục vụ cho việc bồi thường của họ theo phán quyết sau này.
Chúng tôi khuyên bạn nên tìm cách xác định cơ quan công an nào đang chịu trách nhiệm điều tra vụ án để nộp đơn tố cáo, qua đó có thể đưa vụ việc của bạn vào xử lý cùng với vụ án hiện tại. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vụ án mà cơ quan công an quận hoặc thành phố sẽ chịu trách nhiệm.

Chúng tôi khuyên bạn tìm đến một số cơ quan sau đây:
- Công an nơi người vay tiền có hộ khẩu thường trú.
- Công an nơi người vay tiền cư trú thường xuyên.
- Công an nơi người vay tiền làm việc.

Nếu không có kết quả, bạn có thể nộp đơn lên Công an thành phố hoặc Viện kiểm sát thành phố và trình bày yêu cầu của mình, từ đó họ sẽ xác định bạn cần phải nộp đơn tố cáo lên cơ quan cụ thể nào.
Bạn nên thực hiện càng sớm càng tốt, trước khi thời hạn điều tra vụ án kết thúc. Thời hạn điều tra được xác định trong bộ luật Tố tụng hình sự như sau:

Điều 119. Thời hạn điều tra
1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Trong khi chờ đợi, bạn cần thu thập tất cả các bằng chứng về vụ việc. Trường hợp người đó chưa bị bắt, thì bạn có thể yêu cầu tòa án nhân dân quận nơi người đó có hộ khẩu thường trú khởi kiện vắng mặt.

Chúng tôi mong tư vấn này sẽ giúp ích cho bạn. Chúc bạn thành công!

LCST.

28/4/13

Chuẩn Bị Tâm Lý Trước Khi Bị Kêu Lên Thẩm Vấn Hay “Mời Đi Làm Việc.”

DanLuat - Tết Quý Tỵ TNCG - 25.4.2013: (Để đóng góp vào sự chuẩn bị tâm lý cho quảng đại quần chúng nói chung, và cho tuổi trẻ nói riêng, cho các phong trào đấu tranh đòi Công Lý - Sự Thật và Dân Chủ - Nhân Quyền, BBT - TNCG xin giới thiệu đến quý vị bài viết của "Nhóm Tâm Lý Hướng Dương". Hy vọng, nội dung bài viết sẽ giúp đỡ chúng ta ngày càng "giảm bớt sự sợ hãi", thay vào đó bằng sự "can đảm, tự tin và hành động". Xin chân thành cám ơn "Nhóm Tâm Lý Hướng Dương".

Các bạn thân mến, Trước tình hình hiện nay, khi nhân dân mạnh dạn hơn để thực hiện quyền công dân bị nhà nước tước đoạt thì nhà nước càng sợ hãi, do đó việc hù dọa, răn đe, kêu lên làm việc, và bắt bớ gia tăng. Việc bị kêu lên thẩm vấn hay “mời đi làm việc” sẽ dần là chuyện bình thường, có thể nói sẽ như..... cơm bữa. Chúng ta cần chuẩn bị tâm lý để dần quen thuộc điều này và có “cơm bữa” theo đúng ý mình.

Đầu tiên, chúng ta ai cũng muốn là làm sao giữ bình tĩnh trước áp lực của công an. Sự bình tĩnh thường không đến một cách tự nhiên, nhất là nếu chúng ta thường xuyên có khủng hoảng chấn động bất ngờ trong cuộc sống và đưa đến tình trạng dễ bị hồi hộp lo sợ. Dù đây là phản ứng tự vệ tự nhiên nhưng lâu ngày không kiểm soát, dễ thành thói quen sợ. Điều này cộng hưởng với phản ứng tự động sinh tồn của cơ thể dễ làm tăng thêm nỗi sợ khi bị áp lực. Các phản ứng tự nhiên này là tim đễ đập mạnh, thở hụt hơi, chân tay lạnh, đầu óc mất tập trung, không suy nghĩ vững vàng, v.v...Vì vậy để có sự tự tại bình tĩnh, ngay từ bây giờ chúng ta cần thường xuyên tập thói quen tịnh tâm cho chính mình, để khi bị áp lực chúng ta tự động có thói quen bình tĩnh.

Có ba yếu tố gợi ý có thể giúp chúng ta phát huy thói quen bình tĩnh, điều chế cảm xúc, và lựa chọn chính chắn trước áp lực:

I.Tâm Tịnh

Để tâm được tịnh, chúng ta có thể tập từ bây giờ:

1. Cầu nguyện thường xuyên. Thật sự lắng lòng và để tâm vào ý nguyện.

2. Tập hít thở thư giãn hàng ngày. Lúc này ta tập trung vào hít thở sâu, lắng nghe tiếng thở của chính mình hay những âm thanh chung quanh.

3. Thường xuyên lập lại trong đầu những lời hay ý đẹp trong giáo lý hay ngoài đời gìúp định hướng hoặc động viên ta.

4. Hay làm những cách thư giãn hay tịnh tâm khác mà chúng ta học hỏi được và thích hợp cho bản thân.

Nghiên cứu cho thấy những người tập tịnh tâm sâu và thường xuyên trong một thời gian có thể làm thành não của phần tiền não dày hơn và hoạt động tích cực hơn. Tiền não là nơi giúp chúng ta phán đoán, lấy quyền định, tự chế, kiểm soát xúc cảm, điều chế sợ hãi, và kiểm soát lời ăn tiếng nói của bản thân.

II. Mường tượng thường xuyên sự bình tĩnh tự tin của bản thân và những điều chủ động muốn làm khi bị thẩm vấn để dồn năng lượng vào điều ta muốn xảy ra.

Sự mường tượng đưa chính mình vào thực tế trước trong trí não là cơ hội thao dợt để nắm vừng phản ứng (suy nghĩ cảm xúc) của chính bản thân và phần nào trong tư thế sẵn sàng ứng phó trước áp lực. Khi chúng ta chú ý lưu tâm vào đâu thì tâm não của chúng ta sẽ dồn năng lượng vào đó. Chúng ta hướng về những suy nghĩ tích cực và sự tự tin, chúng ta sẽ tự tin.

Bốn điều ta có thể mường tượng và tập trước là:

1. Lắng nghe và quan sát đối phương. Chúng ta cần biết rất rõ những gì đang diễn ra. Họ nói gì, hỏi gì. Quan sát cử chỉ của họ và quan sát điều họ nói.

2. Giữ im lặng. Điều này giúp ta dễ kiểm soát chính mình, có thời gian để lựa chọn đối thoại theo ý muốn, kiểm soát chính bản thân và từ đó thêm tự tin. Như kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh có nhắn nhủ: “Nên nhớ một quyền là chúng ta có quyền im lặng, từ chối trả lời. Không cần thiêt là hỏi gì trả lời đó. Công an có tính cù nhầy và hay nói nhiều câu rất vớ vẩn.”

3. Không sợ hãi: Kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh chia sẻ: “....không có gì phải sợ....Nếu pháp trị thì phải có bằng chứng chứ không thể dùng “cảm tính” nghi ngờ được.” Các bạn có thể kham thảo thêm chia sẻ của kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh tại:

http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/2013/02/giay-moi-va-dan-chu.html4. Chủ động đối thoại. Như chia sẻ của TS Nguyễn Quốc Quân sau khi ra tù: “Luôn nói điều mình muốn nói. Không cung cấp điều họ muốn biết.” Hay “Cho họ biết giao ước 3 không, tức không cung cấp con số, không cung cấp nơi chốn, và không cung cấp tên người.” Tập quen những trả lời như: “Tôi không biết.” “Tôi không nhớ” hay “Xin phép tôi không nói.” Hiều là người thẩm vấn chỉ đang làm nhiệm vụ của họ.

III. Thuộc nằm lòng và biết rất rõ QUYỀN của chúng ta theo pháp luật hiện nay và dùng hiểu biết này để đối thoại chỉ ra những sai trái của việc thẩm vấn hay bắt bớ.

Các bạn hãy tham khảo thêm Cẩm Nang Luật- Tập 1 trên blog Luật Của Sự Thật: http://luatcuasuthat.blogspot.com.au/p/tap-1.htmli

Sau là những kiến thức căn bản về luật pháp mà chúng ta cần nắm vững để giúp ta có thêm tự tin, đối thoại chủ động, và định hướng kinh nghiệm bị thẩm vấn.

Khi bị CA đòi bắt đem về đồn, bạn có quyền hỏi lý do và có quyền từ chối không đi cho tới khi có lý do chính đáng không? Nên đi theo CA về đồn hay là không?

Theo qui định tại Điều 71 Hiến pháp 1992 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.

Và tại Điều 6 Bộ luật TTHS: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.”

Như vậy theo qui định tại Hiến pháp và Bộ luật TTHS, thì công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không ai bị bắt nếu không có quyết định của tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát. Do đó khi bạn tham gia biểu tình mà bị cảnh sát hay an ninh đòi bắt giữ thì bạn có quyền yêu cầu họ nói rõ lý do bắt bạn, yêu cầu họ cho biết họ cho biết bạn vi phạm luật nào và điều bao nhiêu?

Trong trường hợp họ sử dụng vũ lực để cưỡng bức bạn về đồn cảnh sát, bạn nên tạm thời chấp hành để trách việc họ vu khống cho bạn chống người thì hành công vụ. Nhưng khi họ làm việc thì bạn cương quyết yêu cầu họ nói rõ lý do bắt bạn.

CA có quyền tạm giam bạn bao lâu trong tiến trình điều tra? Bạn có quyền yêu cầu để được gặp luật sư của bạn không?

Theo qui định của Bộ luât TTHS tại Điều 87 về thời hạn tạm giữ:

1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Như vậy thời hạn tạm giữ tối đa là 9 ngày.

Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 120 về thời hạn tạm giam để điều tra:

1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Như vậy thời hạn tạm giam tối đa là 16 tháng.

Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 11 về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.”

Như vậy bạn có quyền yêu cầu gặp luật sư của bạn ngay từ khi bạn bị tạm giữ. Bạn có quyền không trả lời bất cứ câu hỏi nào của cơ quan cảnh sát và bạn cũng có quyền từ chối làm việc với Cơ quan cảnh sát cho đến khi bạn gặp được luật sư của bạn. Bạn có quyền yêu cầu luật sư của bạn có mặt trong mọi cuộc làm việc với Cơ quan cảnh sát, trong mỗi bản lời khai đều phải có chữ ký của luật sư. Lý do của bạn là bạn không có đủ kiến thức pháp luật khi làm việc cũng như khi trả lời câu hỏi của Cơ quan cảnh sát và pháp luật cho bạn có quyền có luật sư từ khi bạn bị tạm giữ. Bạn có quyền không chấp nhận bất cứ lý do nào mà Cơ quan cảnh sát đưa ra để từ chối quyền có luật sư của bạn. Quyền tối cao của bạn là giữ im lặng cho tới khi bị đưa ra Tòa.

Nếu bị CA đánh thì bạn nên làm gì? Nếu bị CA la lối, sỉ nhục thì bạn nên làm sao?

Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 7 về việc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.”

Như vậy khi công an đánh bạn, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bạn thì họ đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật, và những hành vi đó của họ sẽ bị xử lý theo pháp luật. Bạn cần học thuộc điều này để khi những người công an thực hiện hành vi vi phạm pháp luật với bạn, thì bạn nhắc nhở họ. Bạn yêu cầu gặp cấp trên của họ để khiếu nại. Sau khi được tự do, bạn có quyền làm đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của những công an đó với Viện kiểm sát hoặc kiện họ ra Tòa.

Bạn có quyền yêu cầu liên lạc với gia đình của bạn khi bị CA giam giữ hay không?

Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 85: thông báo về việc bắt:

“Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.”

Như vậy bạn có quyền yêu Cơ quan đang giam giữ bạn phải thông báo cho gia đình bạn biết về việc bạn bị bắt. Tương tự như quyền có luật sư của bạn, bạn có quyền từ chối làm việc cũng như trả lời câu hỏi của Cơ quan cảnh sát cho tới khi bạn biết chính xác rằng gia đình của bạn đã biết được việc bạn bị bắt.

Bạn có nên ký giấy nhận tội hay không? Nếu bị ép phải ký giấy nhận tội thì bạn nên ứng xử ra sao?
Theo qui định của Bộ luật TTHS tại Điều 9:

“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Như vậy chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết bạn là người có tội hay không. Bất kỳ người nào ép buộc bạn ký giấy nhận tội là họ đã vi phạm pháp luật. Bạn nhớ thuộc điều này để nhắc nhở những người ép buộc bạn.Bạn cương quyết từ chối việc ký giấy nhận tội.

Bạn có thể làm gì nếu CA áp lực nơi hãng xưởng hoặc công ty nơi bạn làm việc để đuổi bạn?

Nếu bạn có bằng chứng về việc công an gây áp với nơi bạn làm việc để họ đuổi việc bạn thì bạn có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đó với thủ trưởng hoặc cơ quan cấp trên của người công an đó; tố cáo tới cơ quan báo chí. Đồng thời bạn có quyền kiện chủ công ty đã đuổi việc bạn một cách trái pháp luật ra Tòa Lao động.

Nếu như CA đe dọa gia đình bạn thì bạn có thể khiếu nại nơi đâu?

Điều 74 Hiến pháp năm 1992 qui định:

“Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”

Như vậy khi công an khi công an đe dọa gia đình bạn thì bạn có quyền tố hành vi vi phạm pháp luật đó với thủ trưởng của người công an, hoặc cơ quan cấp trên của họ. Bạn cũng có thể gửi thông tin tới các cơ quan báo chí nhờ họ giúp đỡ. Những người công an có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bạn sẽ bị xử lý. Những thiệt hại mà họ gây ra cho gia đình bạn sẽ được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.

Một số điều nên và không nên làm hoặc nói trong khi bị CA hỏi cung.

Theo qui định tại Điều 63 Bộ luật TTHS về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự:

“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;”

Như vậy, nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Bạn không có nghĩa vụ phải trả lời các câu hỏi của Cơ quan điều tra. Bạn có quyền giữ im lặng cho đến khi bạn bị đưa ra Tòa án để xét xử.Bạn có quyền yêu cầu luật sư của bạn có mặt trong buổi hỏi cung của Cơ quan điều tra, bạn có quyền tham khảo ý kiến luật sư của bạn về câu trả lời của bạn cho Cơ quan điều tra.

Mến chúc các bạn luôn bình an và vững tin vào lẽ phải trong mọi thử thách các bạn nhé!

7/4/13

Vu Khống người khác "Phản Động" sẽ bị xử lý như thế nào?

???????????????????????????????

LCST xin được giới thiệu cùng quý một bài mới rất hay từ Luật sư Nguyễn Văn Đài. Xưa nay chúng ta nghe nói nhiều về các phiên tòa "Phản Động" nhưng có lẽ ít có ai hỏi vậy thì những người chuyên vu khống người khác thì sẽ phải bị xử lý ra sao?

Vu khống là hành vi bịa đặt, vu cáo, nói người khác là “phản động” hoặc đưa tin một chuyện xấu xa, không có thật để làm mất danh dự, uy tín của người khác hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Hành vi vu khống xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Do tính chất nguy hiểm của hành vi vu khống gây ra cho người khác và xã hội, nên hành vi vu khống bị coi là hành vi phạm tội và được qui định tại điều 122 Bộ luật Hình sự.

“1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt người khác là phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:
a/ Có tổ chức;
b/ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c/ Đối với nhiều người;
d/ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ/ Đối với người thi hành công vụ;
e/ Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Mặt khác quan của tội phạm: Vu khống biểu hiện ở ba loại hành vi: Vu cáo người khác là “phản động”, bịa đặt chuyện xấu xa cho người khác về vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, …. Bịa đặt là hư cấu những câu chuyện không có thật, loan truyền những chuyện, những điều biết rõ là bịa đặt, vu oan cho người khác là “phản động”; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước cho rằng họ đã phạm một tội nào đó.

Các hình thức vu khống như truyền miệng, viết bài, thơ ca hò vè, đơn tố giác, thư nặc danh,…. Hậu quả sảy ra là nạn nhân mất uy tín, danh dự hoặc bị thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tội vu khống được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội thực hiện hành vi loan truyền những điều bịa đặt cho người khác biết, vu cáo người khác là “phản động” hoặc tố cáo với cơ quan Nhà nước về việc người khác là phạm tội.

Khi vu khống người khác là “phản động”, thì kẻ phạm tội đã cho rằng người bị vu khống vi phạm vào một trong những điều luật được qui định trong chương mười một, phần các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Đây là các tội đặc biệt nghiêm trọng do vậy người thực hiện hành vi vu khống đã phạm vào khoản 2 điều 122 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt từ một đến bảy năm tù giam.

LS Nguyễn Văn Đài

11/3/13

Tư Vấn Luật Pháp: Xin Cấp GCN Cho Đất Khai Hoang Trước 15/10/1993

DanLuat - Tết Quý Tỵ

Hỏi: (Ngọc Diệu)

Ông A ,quê ở bình định, năm 1986 di dân lên Phú Bổn, Gia Lai sinh sống. Thời gian này vợ chồng ông có khai hoang 1 mảnh đất diện tích 4 ha (Thời điểm nhà nước có triển khai khuyến khích khai hoang đất bỏ trống). Lúc khai hoang ông A có xin phép chính quyền địa phương và được chấp nhận.
Vì khu đất khai hoang có vị trí ko thuận lợi, điều kiện canh tác kém (ko có nguồn nước tưới), để khai hoang và canh tác ông A đã đầu tư 25 triệu đồng để thuê máy san lấp mặt bằng, thuê người đào kênh mương dẫn nước khoảng 5km. Sau đó tiến hành trồng lúa nước.

Năm 2000, UBND xã đòi thu hồi đất để chia đều cho cán bộ nhà nước nhưng không bồi thường cho ông A. Ông A đã tiến hành khiếu nại vụ việc lên UBND huyện. UBND huyện đã xử cho ông A được phép tiếp tục sử dụng phần đất đã khai hoang.

Năm 2008, UBND xã tiếp tục đòi lấy đất. Ông A viết đơn khiếu nại lên UBND tỉnh Gia Lai. UBND tỉnh xem xét thấy vợ chồng ông A có công đầu tư khai hoang, đào kênh rạch; UBND tỉnh ra quyết định để ông A tiếp tục sản xuất trên phần đất đó và mỗi năm phải đóng thuế cho xã theo hình thức thuê đất.

Từ 2008 đến nay UBND xã nhiều lần can thiệp gây khó dễ việc sử dụng đất của ông A.

Kính hỏi luật sư, được biết UBND xã ko có thẩm quyền thu hồi đất, giao đất. Vậy việc UNBD xã trên thu hồi đất khai hoang (sử dụng ổn định, lâu dài nhưng chưa được cấp GCN) là sai đúng không ạ?
Sau khi đã có quyết định của UBND huyện và của UBND tỉnh cho phép ông A sử dụng đất có thu tiền (theo hình thức thuê đất), nhưng UBND xã tiếp tục gây khó khăn thì ông A phải làm như thế nào?

Thưa luật sư, căn cứ theo sự việc trên thì liệu ông A có thể được cấp GCN cho phần đất đã khai hoang hay không? Nếu có thì trình tự như thế nào khi UBND tỉnh đã có quyết định sử dụng đất theo hình thức thuê đất ạ?

Đáp: (LS Đặng Văn Cường, Đoàn LS Hà Nội)

Chào bạn!

1. Theo thông tin bạn nêu thì có căn cứ để xác định là thửa đất trên là đất khai hoang, sử dụng ổn định, liên tục trước 15/10/1993 do vậy đủ điều kiện để "công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất" theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai.
2. Việc UBND huyện công nhận quyền sử dụng đất của ông A là có căn cứ pháp luật. Việc UBND tỉnh không công nhận quyền sử dụng đất cho ông A mà chỉ cho ông A được sử dụng đất dưới hình thức thuê đất là không đúng pháp luật, không phù hợp với thông tin mà bạn nêu trên, gây thiệt hại cho ông A. Tuy nhiên, Quyết định này đã hết thời hiệu khởi kiện nên ông A chỉ có thể đơn thư đề nghị, kiến nghị để Chủ tịch UBND huyện xem xét lại quyết định này.
3. UBND xã không có thẩm quyền giao đất, thu hồi đất... nên nếu UBND xã có các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính vi phạm quy định về quản lý đất đai thì ông A có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định pháp luật.
Nguồn: http://danluat.thuvienphapluat.vn/xin-cap-gcn-cho-dat-khai-hoang-truoc-15-10-1993-87894.aspx

10/3/13

Tư Vấn Luật Pháp - Luật Kế Thừa

DanLuat - Tết Quý Tỵ

LCST: Mời bạn đọc theo dõi trường hợp sau đây được đăng trên nguồn :"Thư Viện Pháp Luật"

Hỏi:

Tôi muốn hỏi về luật thưa kế như sau:

Bố của bà tôi, sau khi mẹ của bà tôi mất đi thêm bước nữa. Sau khi bố của bà tôi mất không để lại di chúc gì cả, và bà tôi cũng đi lấy chồng. nên đất đai đều thuộc sở hữu của con riêng của gì và con của bố bà tôi với gì 2.

Tôi muốn hỏi là bà tôi có quyền thưa kế đất đai không ( đất đai do bố mẹ ruột của bà để lại)

Và bà tôi phải làm những thủ tục gì để đòi quyện thừa kế ạ?

Cám ơn diễn đàn

Trả lời:

Chào bạn!

Bố mẹ của bà bạn mất không để lại di chúc nên đất đai là di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ bà bạn (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 675 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về những trường hợp thừa kế theo pháp luật) và bà bạn là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về người thừa kế theo pháp luật). Ngoài ra, bà bạn còn được thừa kế di sản của dì hai nếu bà bạn và dì hai có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con (quy định tại Điều 679 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về quan hệ thừa kế giữa con riêng và mẹ kế).
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bà bạn có thể khởi kiện những người con riêng của bố bà bạn và dì hai của bà bạn để yêu cầu Toà án chia thừa kế. Tuy nhiên, bạn lưu ý về thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thân!
Cập nhật bởi luatsuduclong ngày 07/03/2013 06:39:29 CH

4/3/13

Tư Vấn Luật Pháp

justice balance iconLCST: Thưa các bạn, có một số bạn đọc gửi thắc mắc về pháp luật Việt Nam, chúng tôi rất hân hạnh đón nhận và cố gắng đưa ra câu trả lời, giải thích chính xác nhất có thể được. Mong đón nhận được những ưu tư của các bạn để chúng ta cùng đóng góp ý kiến chung, hầu giúp đỡ nhau hiểu rõ hơn những luật lệ hiện hành.
 
Chúng tôi nhận được câu hỏi của bạn Trần Công Lý sau đây:



Kính gửi BBT Luật Của Sự Thật

Tôi đã xem qua  bản cáo trạng của các anh em thanh niên công giáo và bài trả lời phỏng vấn của LS Hà Huy Sơn về việc một số các anh đã phản bác những cáo buộc được ghi trong bản cáo trạng.
Xin quý vị cho biết sự tùy tiện của cơ quan an ninh điều tra như thế có vi phạm điều khoản nào trong luật pháp Việt Nam hay không ? Nếu dựa vào nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế, chúng ta có thưa kiện ngành tư pháp Việt Nam ở cơ quan nào khg hoặc có thể làm gì để áp lực buộc ngành tư pháp của Việt Nam phải trung thực hay không?
                                                                                               (Trần Công Lý)
Trả lời:

Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố 14 thanh niên Công giáo về tội danh « Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân », được quy định tại điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Những quy định về điều tra được quy định tại chương IX Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003. Cụ thể là tại các điều từ 110 đến 125 Bộ Luật TTHS.

     Ngay tại điều 4 Bộ Luật Tố tụng hình sự cũng quy định « Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”.

    Việc xử lý vi phạm điều tra cũng được quy định tại khoản 1 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng Hình sự: "Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình.

Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật."

    Các bị can trong bản cáo trạng nói trên là công dân Việt Nam nên không thể áp dụng các giải pháp về ngoại giao hay áp dụng theo các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết như đối với các công dân nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta có thể gửi đơn lên Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp Quốc tố cáo Chính phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền. Hoặc yêu cầu các chính phủ Dân chủ gây sức ép ngoại giao đối với Việt Nam về việc vi phạm Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

2/3/13

Bô-xít Tây Nguyên sau 4 năm: Một loạt lỗi đáng báo động


clip_image001
Hồ điều hòa cho nhà máy bô-xít Tân Rai
(Kienthuc.net.vn) - Sau nhiều đợt khảo sát tại 2 dự án bô-xít Tây Nguyên, nhóm chuyên gia của Viện Tư vấn Phát triển (CODE) đã phát hiện ra nhiều "lỗi" đáng báo động...
Theo các chuyên gia, quặng bô-xít Tây Nguyên bị bết đất gây khó khăn cho việc tuyển rửa, không xử lý được bùn thải đuôi quặng... Chỉ riêng về mặt kinh tế, mỗi tấn alumina (nhôm oxit) lỗ thấp nhất là khoảng 35 USD. Nếu cộng thêm các chi phí do tác động môi trường, xã hội... con số lỗ của dự án bô-xít Tây Nguyên có thể còn tăng nữa.
 
Bết đất vì thiếu nghiên cứu đầy đủ
 
ThS Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (CODE) cho biết, từ năm 2010 đến nay nhóm chuyên gia của CODE đã có 3 chuyến khảo sát tại nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ. Chuyến khảo sát gần đây nhất thực hiện vào tháng 9/2012 tại Tân Rai (thời điểm nhà máy Tân Rai đang chạy thử các hạng mục công trình, trong đó có nhà máy tuyển quặng). Chính thời điểm này, các chuyên gia đã giật mình khi chứng kiến một loạt những "lỗi" đáng báo động ở đây.

Sai sót đầu tiên là sai lầm trong việc đánh giá đặc điểm của quặng bô-xít Tây Nguyên và các yếu tố liên quan đến khí hậu, thời tiết của vùng đất này. Thông thường quặng sau khi được đào lên (quặng nguyên khai) sẽ được đưa vào tuyển rửa để lấy quặng tinh sau đó mới đưa vào nhà máy để sản xuất alumina. Ở một số vùng khác (như vùng núi phía Bắc của Việt Nam), đất không bám chắc vào quặng vì thế khi dùng nước với áp lực cao đất dễ dàng bở ra. Tuy nhiên, tại Tây Nguyên, do đất bazan có chứa nhiều sét, vào mùa mưa, sét bị bết lại và dính chặt vào quặng khiến khâu tuyển quặng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, về cơ bản, nhà máy tuyển quặng không thể hoạt động trong mùa mưa với độ ẩm cao.
Điều này cho thấy, trong quá trình nghiên cứu chủ đầu tư đã không nghiên cứu đầy đủ mà chỉ "cắt" từ mô hình khác rồi "dán" vào. Việc tuyển quặng gặp khó khăn do đất bị bết đã đặt ra 2 vấn đề. Thứ nhất nếu không rửa được quặng (hoặc rửa gặp khó khăn) vào mùa mưa thì nhà máy chỉ vận hành được vào mùa khô. Thứ 2, nếu khâu tuyển rửa gặp khó khăn thì liệu "đầu vào" có đủ cho việc sản xuất alumina không? Câu hỏi này chủ đầu tư cần phải trả lời công luận.





Không lắng

ThS Phạm Quang Tú cho hay: Lâu nay chúng ta mới chỉ chú ý đến vấn đề bùn đỏ (sản phẩm thải của quá trình luyện alumina) trong khi đó chưa nhiều người để tâm đến bùn thải quặng đuôi (sản phẩm thải từ quá trình tuyển quặng). Trong tuyển quặng bùn thải quặng đuôi (gồm hỗn hợp bùn thải và nước) chiếm một số lượng rất lớn. Để sản xuất 1 tấn alumina, trung bình sẽ thải ra ngoài từ thì sẽ có 2 - 2,5 tấn bùn thải quặng đuôi.
 
Bùn thải quặng đuôi theo nguyên tắc sẽ được đưa vào bể chứa. Sau một thời gian, bùn sẽ lắng xuống, phần nước phía trên sẽ được tuần hoàn, tái sử dụng vào quá trình tuyển quặng, còn bùn thải lắng ở phía dưới sẽ được đưa ra bãi thải. Tuy nhiên, tại thời điểm nhóm nhà khoa học của CODE đi khảo sát thì thấy hiện tượng bùn thải quặng đuôi không lắng. Trong bể chứa vẫn là hỗn hợp bùn và nước. Điều này rất đáng lo ngại bởi nếu không thu hồi được nước sẽ phải cần thêm một lượng nước rất lớn nữa để phục vụ tuyển quặng, nguồn nước này sẽ lấy ở đâu, nhất là vào mùa khô?
Ngoài ra, việc không tách được nước ra khỏi bùn, sẽ khiến một lượng hỗn hợp nước + bùn sẽ đổ ra bãi thải. Chỉ trong một thời gian ngắn, hỗn hợp này sẽ đầy ứ và tràn ra ngoài do vượt quá công suất vốn chỉ được thiết kế để chứa riêng bùn.


clip_image002
Dây chuyền tuyển quặng của nhà máy Alumin Tân Rai

Hoàn thổ chưa thấy gì

Việc khai thác bô-xít chiếm dụng một diện tích khá lớn (mỗi năm khai trường nhà máy Tân Rai sử dụng hết khoảng trên dưới 100 ha đất tùy thuộc vào chất lượng quặng). Diện tích đất này sẽ không thể sử dụng được nếu không thực hiện hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khai thác. Lẽ ra việc hoàn thổ và phục hồi môi trường phải được triển khai ngay khi dự án mới được bắt đầu. Tuy nhiên, tại thời điểm đoàn khảo sát, quặng đã đưa vào tuyển rửa mà khâu hoàn thổ và phục hồi môi trường chưa có động thái gì. Như vậy, những quan ngại của các nhà khoa học trước đây về khả năng xói mòn đất đai là rất hiện hữu.


Các nhà khoa học trong chuyến khảo sát dự án bô-xít Tây Nguyên tháng 9/2012

Lỗ là điều nhìn thấy

Nhóm chuyên gia của CODE cho hay, chỉ nhẩm tính sơ sơ cũng có thể thấy dự án Tân Rai đang lỗ. Cách đây 4 năm các nhà khoa học của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam đã tính mỗi tấn alumina lỗ từ 50 – 100 USD. Từ năm 2009 đến nay, giá alumina có tăng nhẹ, nhưng các chi phí phục vụ vào việc luyện alumina thì lại đội lên rất cao, vì thế nguy cơ lỗ vẫn rất cao.
 
Theo tính toán của TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Ban Quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), giá thành alumina tại cổng nhà máy là 375 USD/tấn. Hiện chủ đầu tư công bố là bán với giá 340 USD/tấn alumina, như vậy là lỗ khoảng 35 USD/tấn. Điều đáng nói là cần phải làm rõ giá 340 USD/tấn này là bán tại cổng nhà máy hay tại cảng biển, bởi nếu là bán tại cảng biển thì phải cộng thêm các chi phí vận chuyển, bốc dỡ... tương đương mỗi tấn alumina sẽ lỗ từ 65 – 70 USD.
 
Đây là những con số nhìn thấy được. Nếu tính cả những tác động môi trường, tác động xã hội, văn hóa thì chắc chắn con số lỗ này còn tăng lên rất nhiều.
 
Cần sự dũng cảm
 
Theo nhóm chuyên gia của CODE, đã đến lúc phải nghiêm túc ngồi lại với nhau để bàn về tính hiệu quả của bô-xít Tây Nguyên sau 4 năm thực hiện. Trước đây, chủ đầu tư và Bộ Công Thương đã từng mời Viện Kinh tế xây dựng thực hiện đánh giá hiệu quả của 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ. Song, những tính toán này chưa bao giờ được công bố một cách công khai. Đã đến lúc những thông tin được giấu cần phải được đưa lên bàn để cùng nhau tính toán lại.
 
Và nếu các bên có thiện chí ngồi lại với nhau chắc chắn cũng mất chừng 2 - 3 tháng. Trong lúc này, có rất nhiều việc cần làm ngay. Trước mắt cần tăng cường giám sát, đánh giá cũng như thảo luận cụ thể cho nhà máy Tân Rai vì nhà máy này đã đi vào hoạt động. Những vấn đề cần đặt ra cho Tân Rai lúc này là giám sát vận hành, tìm kiếm các đối tác bao tiêu sản phẩm vì tại thời điểm hiện tại chưa có đơn vị nào ký hợp đồng mua dài hạn với mức giá chấp nhận được...
 
Đối với Nhân Cơ, tốt nhất là tạm thời dừng lại để chờ đánh giá kết quả của Tân Rai. Đành rằng việc này rất khó nhưng chúng ta cần sự dũng cảm. Biết nói không với những gì còn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Dự kiến trong thời gian tới, CODE sẽ đề xuất để tổ chức một số hoạt động nhằm kiến nghị các giải pháp cho vấn đề này.


- Suốt 4 năm qua, vấn đề bụi trong quá trình vận chuyện ít khi được nhắc tới. Cần nhớ rằng, quá trình luyện alumina cần tới rất nhiều hóa chất. Liệu việc vận chuyển từ cảng đến nhà máy có xảy ra sự cố không? Ngoài ra, việc vận chuyển alumina từ nhà máy xuống cảng thì sao, liệu có phát sinh bụi không. Thực tế nếu so với bụi than như ở Quảng Ninh, chắc chắn bụi do khai thác bô-xít ở Tây Nguyên không nhiều bằng, nhưng chắc chắn là có. Do vậy cũng cần có những nghiên cứu đầy đủ.
- Vần đề thu hồi đất và tạo công ăn việc làm tại khu vực nhà máy Tân Rai cũng cần phải được nhắc tới. Trước đây, nhà đầu tư cho rằng, một trong những vấn đề "được" của dự án là tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Tuy nhiên, tới thời điểm này, bao nhiêu người dân địa phương được làm việc tại nhà máy, con số này cũng nên được làm rõ. Ngoài ra, vấn đề ai là chủ sở hữu số đất sau khi được hoàn thổ cũng cần được làm rõ. Việc mập mờ hiện nay (trả lại cho địa phương hay chủ đầu tư giữ lại để trồng cây công nghiệp) rất dễ dẫn đến xung đột.

- Để đánh giá công nghệ luyện alumina có vấn đề hay không thì cần chờ thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên, công nghệ tuyển quặng thì đã rõ ràng rồi (quặng bị bết đất, bùn thải đuôi quặng không thể lắng). Hơn nữa, dù chưa đánh giá được công nghệ tuyển alumina nhưng hiện nhà máy đã đi vào vận hành đồng bộ nhưng mới chỉ hoạt động được 20 - 40% công suất. Chỉ riêng điều này thôi cũng khiến nhiều người phải đặt câu hỏi.


Lan Hoa (ghi)
Nguồn: kienthuc.net.vn

24/2/13

Tư Vấn Luật Pháp


LCST: Thưa các bạn, có một số bạn đọc gửi thắc mắc về pháp luật Việt Nam, chúng tôi rất hân hạnh đón nhận và cố gắng đưa ra câu trả lời, giải thích chính xác nhất có thể được. Mong đón nhận được những ưu tư của các bạn để chúng ta cùng đóng góp ý kiến chung, hầu giúp đỡ nhau hiểu rõ hơn những luật lệ hiện hành.
 
Chúng tôi nhận được câu hỏi sau đây của bạn Hồng Anh:
 

Xuyên qua các vụ xử án của TS Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày, Tạ Phong Tần... người ta có cảm tưởng như sự tham gia biện hộ của các luật sư có vẻ như không hiệu quả trước tòa, cho dù các luật sư có những bài biện luận rất hay. Như vậy xin quý anh chị có thể phân tích sự ích lợi của việc có luật sư tham gia các vụ án này như thế nào, vai trò của họ là gì  và có thật sự là cần thiết hay không đối với người bị nạn?
                                                                            ( Thành thật cám ơn quý anh chị
                                                                                             Hồng Anh)
Trả lời:

Sự tham gia của Luật Sư là để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tại Toà án. Luật sư là người hiểu biết pháp luật, họ thay mặt thân chủ yêu cầu Toà án thực hiện đúng quy trình tố tụng trong quá trình xét xử. Đồng thời Luật sư sẽ biện hộ cho thân chủ của mình dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành.

Sự có mặt của các Luật sư tại Toà án là rất cần thiết vì những lý do đã nêu trên.

Ở Việt Nam, sự biện hộ của các Luật sư có vẻ như không được hiệu quả, cho dù họ đã có những bài biện luận rất hay (như bạn nói). Sở dĩ như vậy vì các nguyên nhân sau:

- Hệ thống Tư Pháp (Toà án) không được độc lập (Phải chịu sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản). Những vụ án mà bạn đã nêu trong câu hỏi dư luận đã nói nhiều, người ta cho đây là những bản án “bỏ túi), được chính quyền chỉ đạo. Tội trạng đã được định sẵn, vì vậy toà án chỉ là nơi tuyên án.

- Người Luật sư bị sức ép từ nhiều phía (Đoàn Luật sư, Toà án, Chính quyền...). Luật sư có thể bị khai trừ khỏi đoàn luật sư nếu chính quyền gây sức ép.

- Các đoàn Luật sư do nhà nước giám sát và chỉ đạo. Nghề Luật sư ở Việt Nam chưa được coi là một nghề độc lập. Sự có mặt của Luật sư tại toà án hiện nay chỉ là hình thức, những biện hộ của họ thực chất không được Hội đồng xét xử tôn trọng, không ảnh hưởng đến quyết định của Toà án.

- Luật sư không được tự do hành nghề như trong một xã hội dân chủ (Việt Nam là một quốc gia độc tài).
 

22/2/13

Tư Vấn Luật Pháp

LCST: Thưa các bạn, có một số bạn đọc gửi thắc mắc về pháp luật Việt Nam, chúng tôi rất hân hạnh đón nhận và cố gắng đưa ra câu trả lời, giải thích chính xác nhất có thể được. Mong đón nhận được những ưu tư của các bạn để chúng ta cùng đóng góp ý kiến chung, hầu giúp đỡ nhau hiểu rõ hơn những luật lệ hiện hành.

Chúng tôi nhận được câu hỏi sau đây của bạn Trần Thanh:


Giấy CMND của bạn tôi hết hạn. Bạn tôi đến UBND nơi cư ngụ xin làm lại thì họ đòi bản chánh giấy hộ khẩu của gia đình.

Rất tiếc là gia đình bạn tôi thuộc diện bị CA trù dập, gây khó khăn đủ điều, hộ khẩu của gia đình đã bị CA tịch thu hết bản chánh từ 2 năm trước và đến nay vẫn chưa hoàn trả. Vì vậy cơ quan khg chịu cấp cho bạn tôi CMND mới.

Xin hỏi : làm cách nào để bạn tôi có thể đòi lại hộ khẩu? Khg có CMND hợp lệ có thể bị bắt và truy tố tội hình sự không?

Trả lời:


Theo Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính Phủ quy định về cấp phát CMND, nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính Phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính Phủ và Thông Tư số 04/TT-BCA ngày 29/4/1999 hướng dẫn thực hiện nghị định số 05/1999/NĐ-CP, thì điều kiện để cấp đổi Chứng minh nhân dân như sau:

- Xuất trình hộ khẩu thường trú (bản chính)

- Xuất trình Chứng minh nhân dân cũ

- Kê khai tờ cấp chứng minh nhân dân (theo mẫu)

- In vân tay hai ngón trỏ vào tờ khai và chứng minh nhân dân (theo mẫu)

- Chụp ảnh

- Nộp lệ phí

Vậy để được cấp đổi chứng minh thư nhân dân thì bạn phải xuất trình hộ khẩu thường trú (bản chính). Tuy nhiên trong trường hợp của bạn (bản chính hộ khẩu đang bị cơ quan công an tịch thu) thì có thể đến uỷ ban nhân dân xã (phường) nơi bạn cư trú để trình bày nguyên nhân và xin giấy xác nhận (có đóng dấu) bạn là công dân địa phương.

Bạn không nêu là hộ khẩu của gia đình bạn bị cơ quan công an tịch thu trong hoàn cảnh nào. Nhưng đã 2 năm mà họ vẫn chưa hoàn trả thì bạn làm đơn đến cơ quan công an đã tịch thu hộ khẩu gia đình bạn để đòi lại.

Không có Chứng minh thư nhân dân hợp lệ thì không bị bắt và truy tố tội hình sự. Chỉ có người phạm vào những tội đã quy định trong Bộ Luật hình sự thì mới bị truy tố hình sự.

3/11/12

Tư Vấn Luật Pháp: Visa

Luật của Sự Thật xin gửi đến cùng quý bạn phần tư vấn sau đây của một bạn hỏi về vấn đề xin visa đi du lịch nước ngoài cũng như thủ tục nhập cảnh. Rất mong qua phần tư vấn này nó cũng giúp ít nhiều cho những bạn đang chuẩn bị làm thủ tục visa. LCST.

http://www.luatgiaiphong.com/xuat-nhap-canh/4354-thu-tuc-di-du-lich-nuoc-ngoai

THỦ TỤC ĐI DU LICH NƯỚC NGOÀI

M:


Tôi là người Việt Nam muốn đi du lịch sang những quốc gia khác thì tôi cần có những giấy tờ gì. Qua đây tôi cũng có một thắc mắc: tôi vẫn thường nghe các khái niệm như visa, passport, hộ chiếu nhưng tôi vẫn không hiểu như thế nào mong luật sư giải đáp cho tôi được rõ. Chân thành cám ơn luật sư!

LCST:

 
Chào bạn,

Ban muốn đi du lịch nước ngoài phải có hộ chiếu còn thời hạn trên 6 tháng, Visa của nước mà các bạn định đến, Tờ khai Hải quan và Xuất nhập cảnh Việt Nam: có phát tại sân bay Việt Nam, Tờ khai nhập xuất cảnh nước đến: sẽ được phát trên máy bay.

Phải phải cung cấp những giấy tờ và ảnh cần thiết theo qui định hiện hành của Đại Sứ Quán hoặc Lãnh Sự Quán nước ngoài để xin Visa.

- Visa (còn gọi là thị thực nhập cảnh) là một loại chứng nhận quan trọng do chính phủ một nước cấp cho người nước ngoài muốn đến nước họ. Thông thuờng visa được cấp bằng cách đóng vào sổ hộ chiếu.


M:

Còn nếu như là một người nước ngoài muốn nhập cảnh thì có những loại visa nào và giá trị như sao?

LCST:

Tại Việt nam, visa nhập cảnh được cấp cho người nước ngoài có thể phân biệt các loại:

1. Visa du lịch: có giá trị 30 ngày kể từ ngày nhập cảnh, thường được cấp cho khách du lịch, được quyền nhập xuất cảnh một lần qua các cửa khẩu quốc tế. Có thể được gia hạn nếu có lý do chính đáng.

2. Visa thương mại: có giá trị từ 90 ngày đến 180 ngày kể từ ngày nhập cảnh, thường được cấp cho người nước ngoài đến kinh doanh hoặc tìm kiếm cơ hội đầu tư, được quyền nhập xuất cảnh nhiều lần qua các cửa khẩu quốc tế. Có thể được gia hạn nếu có lý do chính đáng.

3. Giấy phép tạm trú: có giá trị từ một năm kể từ ngày nhập cảnh, thường được cấp cho người nước ngoài đến làm việc thường xuyên hoặc đầu tư, được quyền nhập cảnh qua các cửa khẩu quốc tế. Có thể được gia hạn nếu có lý do chính đáng.

- Hộ chiếu (passport) là một loại giấy tờ quan trọng do một chính phủ cấp cho công dân nước mình như một Giấy Phép Ðược Quyền Xuất Cảnh khỏi đất nước và Ðược Quyền Nhập Cảnh trở lại từ nước ngoài.

Hộ chiếu Việt nam hiện nay có thể chia làm 03 loại:

1. Hộ chiếu Phổ Thông (Popular Passport): được cấp cho mọi công dân Việt nam, có hộ khẩu và Chứng minh nhân dân, có đầy đủ quyền công dân. Hộ chiếu có giá trị trong vòng 05 năm kể từ ngày cấp, được quyền đến tất cả các nước. Người cầm hộ chiếu này khi nhập cảnh tại các cửa khẩu quốc tế phải qua các lối đi thông thường và có thể được miễn visa nhập cảnh theo qui định của các nước đến. Người du học hoặc xuất cảnh định cư cũng sử dụng hộ chiếu phổ thông.

2. Hộ Chiếu Công Vụ (Official Passport): được cấp cho các quan chức chính phủ đi nước ngoài do công vụ của nhà nước. Hộ chiếu có giá trị trong vòng 05 năm kể từ ngày cấp, được quyền đến tất cả các nước. Người cầm hộ chiếu này có quyền ưu tiên qua các cổng đặc biệt khi nhập cảnh và được ưu tiên miễn visa nhập cảnh theo qui định của nước đến.

3. Hộ Chiếu Ngoại Giao (Diplomatic Passport): được cấp cho các quan chức ngoại giao của chính phủ đi nước ngoài công tác. Hộ chiếu có giá trị trong vòng 05 năm kể từ ngày cấp, được quyền đến tất cả các nước. Người cầm hộ chiếu này có quyền ưu tiên qua các cổng ưu tiên đặc biệt khi nhập cảnh và được ưu tiên miễn visa nhập cảnh theo qui định của nước đến.

3/10/12

Tư Vấn Luật Pháp: Vay Nợ



LCST - Luật của Sự Thật xin gửi đến cùng quý bạn phần tư vấn sau đây của một bạn hỏi về vấn đề cho vay nợ, với sự trả lời của Luật sư Nguyễn Văn Đài. Các chi tiết liên quan đến cá nhân cũng như địa danh nơi xảy ra sự cố đã được sửa đổi để đảm bảo sự an ninh và bảo vệ các chi tiết cá nhân của người hỏi. Rất mong qua phần tư vấn này nó cũng giúp ít nhiều cho những bạn đang mắc phải các trường hợp tương tự. LCST.

T:
Em chào anh/chị !

Hiện giờ em đang cần tư vấn gấp 1 sự việc như sau :
Em có cho 1 người mượn số tiền khoảng 50 triệu. Có giấy Hợp Đồng Vay Tiền ghi địa chỉ phòng trọ, số CMND, ngày cấp, nơi cấp của cả 2 bên, ghi thời hạn thanh toán số tiền và có chữ ký 2 bên. Nhưng giờ đã quá ngày trả tiền vay mà em ko liên lạc được với người kia, nhắn tin ko trả lời, gọi điện ko bắt máy. Họ đã chuyển phòng trọ đi nơi khác, giờ em chỉ biết quận và phường họ đang cư trú chứ ko biết chính xác chỗ ở. Số đt hiện giờ cũng ko liên lạc được. Qua tìm hiểu em được biết bạn bè em trước đó cũng có cho người này vay tiền nhưng giờ họ cũng ko liên lạc được, và đặc biệt vì tin tưởng nên họ ko làm bất cứ giấy tờ gì với người này. Gia đình của người này cũng đang đi tìm họ. Em thấy có nguy cơ người này ko thực hiện việc thanh toán đúng như cam kết. Vậy giờ em phải làm sao? em ko giữ CMND photo hay hộ khẩu, giấy tờ nào của người này (ngoài số CMND, nơi cấp, ngày cấp và chữ ký ghi trên hợp đồng). Địa chỉ hiện giờ người đó ở cũng là địa chỉ phòng trọ. Vậy nó có giá trị gì ko ? nếu em muốn khởi kiện người này ra tòa thì em phải gửi đơn tố cáo lên đâu ? giấy tờ cần những gì ? lên tòa án nhân dân phường hay quận ? nơi em ở hay người đó ở ? (người này quê ở Cần Thơ nhưng làm CMND ở TP. HCM và trọ ở q. Phú Nhuận. Vậy em phải gửi đơn đến đâu ? ) Em cám ơn anh /chị nhiều lắm !

Mong hồi âm của anh/chị.

T.

Xin được có lời tư vấn cùng bạn đính kèm và hi vọng còn kịp để giúp giải quyết trường hợp của bạn. Bên dưới là phần tư vấn từ LS Nguyễn Văn Đài:

LS NVĐ: Ban đầu việc vay mượn giữa hai người chỉ là quan hệ dân sự bình thường. Sẽ có ba trường hợp sảy ra:

Trường hợp 1:
Nếu người vay tiền sử dụng tiền đi vay đúng với mục đích mà hai bên thỏa thuận. Nhưng vì một lý do chính đáng nào đó, ví dụ: kinh doanh hợp pháp nhưng thua lỗ, xây dựng nhà cửa nhưng nay mất việc làm mà không có khả năng trả nợ, ... Đồng thời người vay tiền không bỏ trốn, vẫn hứa hẹn sẽ trả lại tiền cho bạn. Trong trường hợp này, bạn chỉ có thể kiện ra Tòa án cấp quận, huyện nơi người đi vay có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú. Theo bạn cho biết thì người này có CMND của thành phố HCM thì chứng tỏ người đi vay đã có hộ khẩu ở thành phố HCM. Như vậy bạn sẽ kiện ra tòa án cấp quận nơi người đó đăng ký hộ khẩu, hoặc tòa án quận nơi người đó tạm trú. Giấy tờ gồm đơn khởi kiện kèm theo bản sao hợp đồng vay.

Trường hợp 2:
Sau khi vay tiền của bạn bằng hợp đồng dân sự, rồi người đi vay sử dụng vào mục đích bất hợp pháp hoặc nảy sinh ý định không trả lại và có mục đích chiếm đoạt bằng cách bỏ trốn. Hoàn toàn không hứa hẹn sẽ trả lại tiền cho bạn. Như vậy, người đi vay đi phạm vào điều 140 bộ luật Hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nội dung điều 140 như sau:

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

"a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm;

e) Gây hậu quả nghiêm trọng."

Trường hợp 3:

Nếu người đi vay đã có mục đích lừa dối bạn ngay từ trước khi ký hợp đồng vay. Người đó đưa ra nhưng lý do nhằm làm bạn tin để cho người đó vay tiền rồi để chiếm đoạt, không trả lại cho bạn. Như vậy người này đã phạm vào điều 139 tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản. Nội dung điều 139 như sau:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

Trong trường hợp 2 và 3, bạn gửi đơn tố cáo kèm theo bản photo hợp đồng vay giữa hai người tới công an cấp quận nơi người vay thường trú hoặc tạm trú.

Trong thực tế, những người cho vay thường đưa những người vay tiền vào vòng tố tụng hình sự bằng cách tố cáo người vay tiền ra công an. Như vậy việc đòi lại tiền nhanh hơn và hiệu quả hơn.

Vậy bạn hãy căn cứ vào nội dung của hai điều luật nói trên để xem xét tính chất của vụ việc. Sau đó quyết định sẽ kiện ra tòa án hay tố cáo tới cơ quan công an. Theo như những gì bạn viết trong thư thì người này đã vay tiền của rất nhiều người và không trả lại họ. Như vậy thì rất có thể người vay tiền sẽ phạm cả hai tội theo điều 139 và 140. Điều này cơ quan công an sẽ xác minh qua từng vụ vay tiền cụ thể. Chúc bạn thành công trong việc đòi lại tiền của mình.

T:
Rất cám ơn lời hồi âm của a/c. Nhưng nếu em muốn tố cáo người đó ra CA thì em nên gửi đơn tố cáo đến đâu? nơi thường trú trên hộ khẩu của người đó hay nơi tạm trú? nơi thường trú thì họ đã chuyển đi lâu ( trên 10 năm) còn nơi tạm trú ( tức nơi ở trọ bây giờ ) thì họ có thể chuyển đi bất cứ lúc nào. Nếu trong thời gian CA giải quyết vụ việc mà họ cố tình chuyển đi thì em phải làm sao ? em có cần phải tìm ra họ trước khi đưa đơn cho CA không? mà bây giờ chính em cũng ko biết làm cách nào để liên lạc với họ.bên phía CA có giúp em tìm người không? rất mong lời hồi âm của a/c.

LS NVĐ:
Trong trường hợp ở nơi thường trú của người vay tiền vẫn có nhà cửa và người thân của người đó đang cư trú như bố, mẹ, vợhoặc chồng thì việc tố cáo sẽ dễ dàng hơn. Nhưng đơn tố cáo thì vẫn phải nộp tại công an cấp quận nơi người vay tiền đang tạm trú. Trong đơn bạn phải cung cấp địa chỉ thường trú trước đây của người đó và địa chỉ của bố, mẹ, vợ hoặc chồng của người vay tiền nếu có.

Khi công bắt đầu điều tra vụ việc mà người vay tiền cố tình chuyển nơi ở với mục đích trốn tránh, thì đó là dấu hiệu của tội phạm, cơ quan công an có trách nhiệm ra quyết định cấm người đó đi khỏi nơi cư trú. Người vay tiền có dấu hiệu bỏ trốn, cơ quan công an có trách nhiệm bắt tạm giam để điều tra. Nếu người đó trốn mất, cơ quan công an có trách nhiệm ra quyết định truy nã trên toàn quốc.
Bạn cũng có nghĩa vụ hợp tác với cơ quan công an trong việc tìm ra nơi người vay tiền cư trú. Sau đó báo cho cơ quan công an biết.

Khi bạn làm đơn tố cáo, trách nhiệm của công an là phải điều tra và làm rõ sự thật để bảo vệ quyền lợi của bạn. Nhưng trên thực tế, có rất nhiều các vụ vay mượn tiền tương tự, người vay tiền bỏ trốn đã rất nhiều năm mà cả người cho vay lẫn cơ quan công an vẫn chưa tìm được. Đó là một thực tế mà bạn có thể phải chấp nhận.

Nhưng muốn biết mình có được may mắn để đòi lại tiền cho vay hay không, bạn hãy làm đơn tố cáo gửi tới công an cấp quận nơi người đó cư trú. Đồng thời bạn tìm xem có bao nhiêu nạn nhân giống như bạn và đề nghị họ cũng làm đơn tố cáo như bạn. Do vậy, cơ quan công an sẽ vào cuộc tích cực hơn. Đồng thời bạn cũng sẽ phải tự mình truy tìm nơi người vay tiền đang cư trú để báo cho cơ quan công an nơi bạn đã nộp đơn tố cáo.

Chúc bạn may mắn.

LCST

Facebook Twitter Stumbleupon More