-->
Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền, 10 tháng 12 sắp đến đây, Luật của Sự Thật xin trân trọng giới thiệu đến quí bạn Tập 3 của cuốn cẩm nang “Luật cho Bạn và Tôi”. Tập 3 sẽ nói về quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin. Đây là một trong những quyền căn bản của con người về chính trị mà không thể bị hạn chế hay tước đoạt. Có lẽ trong tất cả các quyền căn bản được liệt kê trong Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị, thì đây là một trong những quyền mà thường bị các nhà độc tài hoặc các thể chế độc đảng vi phạm nhất. Lý do đơn giản là vì họ biết rằng khi khống chế hoặc độc quyền được truyền thông, tức là cấm sự thông tin đa chiều thì sẽ dễ dàng cai trị, hoặc có thể dẹp tan ngay những ý kiến trái ngược cho dù đây là những kiến nghị tích cực. Bưng bít thông tin hay độc quyền tuyên truyền là một phương tiện lợi hại và cần thiết để bảo toàn quyền lực của một chính phủ.
1. Trong Hiến Pháp và Luật Pháp Việt Nam có điều khoản nào bảo vệ quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin của người dân không?
Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin được qui định tại điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992. Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được cụ thể hóa trong luật báo chí năm 1989 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999. Luật thông tin đang Quốc hội Việt Nam soạn thảo.
Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được bảo vệ theo qui định tại Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: “ (i) Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào; (ii) Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ban hành năm 2005 qui định tại khoản 6 Điều 3 như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Khoản 1 Điều 6 qui định: “ Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.”
Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị vào ngày 24 tháng 9 năm 1982.
Như vậy trong trường hợp các qui định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin chưa đầy đủ thì các qui định về điều này của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được áp dụng thay thế ở Việt Nam.
2. Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin khác nhau ở chỗ nào? Và khi nói đến quyền tự do ngôn luận thì nó có bao gồm mọi phương tiện biểu đạt hay không, hay là luật pháp chỉ giới hạn trong một vài phương tiện truyền thông mà thôi?
Quyền tự do ngôn luận là công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, quan điểm của mình về tình hình đất nước và thế giới; công dân có quyền góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của đảng cầm quyền, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các thành viên của các tổ chức đó. Quyền này còn bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến khác nhau.
Quyền được thông tin là qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền phải thông tin đến người dân về các vấn đề của đất nước mà không thuộc bí mật quốc gia. Đồng thời luật pháp phải qui định trong một thời gian nhất định thì các cơ quan nhà nước, chính quyền phải tiến hành giải mã các thông tin mật đó và công bố cho nhân dân được biết. Khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận thì họ có quyền kết hợp cả qui định của luật pháp Việt Nam và qui định của Công ước quốc tế.
Như vậy công dân Việt Nam có quyền sử mọi hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ mà không phân biệt ranh giới quốc gia.
3. Hiện nay tại Việt Nam có quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin không?
Ở Việt Nam, trong Hiến pháp và pháp luật thì có ghi nhận quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin như đã trình bày trong câu số một. Đồng thời chính phủ Việt Nam luôn luôn tuyên bố họ tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin của người dân trong cuộc sống. Còn trong trong thực tiễn, theo quan điểm riêng của cá nhân tôi, thì tại Việt Nam quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin còn bị hạn chế.
4. Cả nước Việt Nam hiện nay có một cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào không, hay tất cả đều trực thuộc cơ quan nhà nước? Và nếu trực thuộc cơ quan nhà nước thì có sự độc lập trong vấn đề nội dung chuyển tải không hay tất cả đều phải thông tin tuyên truyền theo chỉ thị của Ban Tuyên Giáo Trung Ương?
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào. Việt Nam có khoảng trên 600 tờ báo, đài phát thanh, truyền hình nhưng đều do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương quản lý và kiểm soát.
Những nội dung thông tin về những vấn đề chính trị nhạy cảm thì các cơ quan truyền thông phải thực hiện theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Thông tin và Ban tuyên giáo trung ương.
5. Nếu như tôi và một số bạn bè tôi muốn đề xuất một tờ báo thì tôi có cần phải xin phép hay không? Và nếu có thì phải xin phép cơ quan nào?
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định rằng công dân Việt Nam có quyền tự do báo chí. Tức là công dân Việt Nam có quyền bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình trên các phương tiện truyền thông hiện có và công dân Việt Nam có quyền thành lập báo chí tư nhân để bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình.
Nhưng trong luật báo chí năm 1989 chỉ qui định thủ tục cấp phép thành lập cơ quan báo chí cho tổ chức. Không có qui định thủ tục cấp phép thành lập báo chí cho công dân.
Do vậy bạn có quyền thực hiện quyền tự báo chí đã được qui định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 mà không cần phải xin phép.
6. Nếu như tôi cùng một số bạn bè đi phân phát những tờ bướm hay những tờ truyền đơn để cỗ vũ cho nhóm/hội hay một quan điểm chính trị ôn hòa nào đó thì việc này có được bảo vệ trong quyền tự do ngôn luận hay không?
Theo qui định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, qui định của Hiến pháp Việt Nam thì bạn có sử dụng mọi phương tiện khác nhau để bày quan điểm của mình và quan điểm của người khác hay quan điểm của một tổ chức chính trị ôn hòa nào đó. Miễn là nội dung của những tờ bớm hay truyền đơn đó không cổ vũ cho bạo lực, không đòi lật đổ chính quyền hợp hiến, không vu cáo, phỉ bang, không tục tục tĩu hay kích động các hành vi dâm ô, không kích thích sự thù hằn dân tộc…
7. Gần đây có một số tập truyện và sách xuất bản bị Sở Thông Tin cấm hoặc thu hồi lại vì nó phản ảnh thực trạng của xã hội. Vậy việc làm này của Sở Thông Tin có đúng với pháp luật Việt Nam không?
Theo qui định tại Điều 30 luật xuất bản năm 2005, cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện những xuất bản phẩm có vi phạm Điều 10 thì có quyền tạm đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy.
Điều 10 qui định như sau:
Những hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản:
1. Tuyên truyền chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục.
3. Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định.
4. Xuyên tạc sự thật lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.”
Trong thực tế có những cuốn sách phản rất đúng đắn thực trạng xã hội, được người dân yêu thích và tìm đọc. Trong khi chính quyền nhìn nhận dưới góc độ không có lợi chính thể độc đảng, họ cho rằng những cuốn sách như sẽ gây sự bất bình trong nhân dân với chính quyền. Do vậy cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào một trong bốn điểm trên của Điều 10 Luật xuất bản để đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, hoặc tiêu hủy.
8. Còn những phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog, .…thì sao? Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua những phương tiện này không?
Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua các phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog,… khi nhà cung cấp dịch vụ được đặt ở một quốc gia khác. Bởi khi nhà cung cấp cho phép bạn sử dụng dịch vụ của họ thì họ đã được thành lập hợp pháp tại quốc gia đó. Nhà cung cấp dịch vụ và những dịch vụ mạng của họ mà bạn sử dụng chịu sự điều chỉnh của luật pháp nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký và chịu sự điều chỉnh của Công ước quốc tế.
Luật pháp Việt Nam không có điều nào cấm bạn sử dụng các phương tiện mạng xã hội của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như vậy.
Các nội dung thông tin mà bạn chuyển tải trên các phương tiện mạng xã hội thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký. Luật pháp Việt Nam không thể kiểm soát các thông tin này.
9. Tại sao một số blogs, websites và ngay cả facebook bị chính quyền chặn tường lửa hoặc cấm không cho người dân vào xem? Và nếu như bạn bị công an bắt tra hỏi vì những bài vở bạn viết được đăng trên các mạng xã hội thì bạn phải ứng đối như sao? Bạn có phạm luật không khi làm những việc đó?
Trong một xã hội dân chủ, các quyền tự do ngôn luận và tự báo chí được tôn trọng và thực thi trên thực tế thì các phương tiện truyền thông trong quốc gia đó sẽ được tự đăng tải các thông tin, các quan điểm, ý kiến khác nhau, đối lập với nhau về cùng một vấn đề, một hiện tượng là việc bình thường. Người dân sẽ có điều kiện để tiếp cận và biết đến những ý kiến, quan điểm khác nhau về các vấn đề chính trị xã hội. Và như vậy người có đủ thông tin để đánh giá đúng những vấn đề đó. Điều này thúc đẩy xã hội phát triển một cách văn minh, đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Trong xã hội dân chủ, các thông tin, ý kiến, quan điểm đối lập được đăng tải công khai. Nó giúp cho đảng cầm quyền nhận ra những sai lầm, khuyết điểm của họ để họ sửa chữa, khắc phục trước khi quá muộn. Điều này sẽ đem lại lợi ích nhân dân và đất nước.
Ở Việt Nam đang duy trì chế độ chính trị độc đảng không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi các quyền con người. Để bảo đảm duy trì địa vị độc đảng của mình thì các cơ quan an ninh của đảng cộng sản phải ngăn chặn những thông tin đối lập, trái chiều không có lợi cho họ. Do vậy họ phải sử dụng kỹ thuật để lập nên những bức tường lửa ngăn chặn những blogs, websites, facebook,…
Trong khi sự hiểu biết về dân chủ, nhân quyền, thậm chí cả sự hiểu biết về pháp luật Việt Nam và quốc tế của cơ quan an ninh Việt Nam còn yếu kém. Bạn phải thận trọng khi sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình.
Bạn phải tuân thủ nguyên tắc là không bao giờ lưu giữ những thông tin, bài vở của bạn cũng như của người khác trong máy tính, trong nhà và nơi làm việc của bạn.
Khi bạn được cơ quan an ninh mời đi làm việc, họ sẽ in những bài viết trên blogs, websites, facebook, …. Họ sẽ hỏi bạn có biết những bài viết này không? Chúng có phải của bạn không? Bạn không có nghĩa vụ phải trả lời câu hỏi của họ. Trước hết bạn phải bình tĩnh hỏi lại họ là họ đã lấy những bài viết này ở đâu? Những blogs, websites, facebook,… đó có đăng ký ở Việt Nam không? Những blogs, websites, facebook, … đó có chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam không?
Bạn nên hiểu là nhà cung cấp dịch vụ cho bạn và những thông tin, bài viết của bạn trên đó là hoàn toàn hợp pháp theo luật pháp của nước nơi mà họ đăng ký, phù hợp với Công ước quốc tế. Đồng thời các trang blogs, websites, facebook,… không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân của mình sử dụng các trang blogs, websites, facebook của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Bạn không cần trả lời là biết hay không biết các bài viết đó. Bạn cũng không cần trả lời nó có phải của bạn hay không. Bạn không cần phải ký xác nhận các bài viết đó là không phải của bạn. Tóm lại bạn có quyền từ chối trả lời mọi câu hỏi của họ, từ chối mọi yêu cầu của họ. Việc bạn từ chối yêu cầu của cơ quan an ninh hoàn toàn không vi phạm pháp luật Việt Nam. Bạn có quyền tự bảo vệ mình bằng cách im lặng cho tới gặp luật sư của bạn.
Nếu cơ quan an ninh cố tình sử dụng các thông tin, bài viết trên các trang blogs, websites, facebook, … để chống lại bạn thì họ đã vi phạm pháp luật của nước mà nhà cung cấp dịch vụ cho bạn đăng ký, họ đã vi phạm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
10. Trong thời gian qua, có nhiều bloggers bị bắt và chịu án tù vì họ viết những bài bày tỏ quan điểm của mình qua những vấn đề như bô-xít, bảo vệ chủ quyền Việt Nam, hay phê bình tình trạng tham nhũng: Vậy họ đã vi phạm tội gì? Và điều luật 88 bộ luật hình sự nghĩa như thế nào?
Trong những năm qua có nhiều bloggers đã bởi lương tâm và trách nhiệm của mình với nhân dân và đất nước. Và họ đã có những bài viết bày tỏ quan điểm riêng tư của họ về những vấn đề xã hội như khai thác bô xít, tham nhũng hay bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những ý kiến, quan điểm của họ mang tính chất cá nhân, nhưng chúng lại phản ánh ý kiến, quan điểm và những bức xúc của đại đa số nhân dân. Thật đáng tiếc, lẽ ra chính quyền nên lắng những ý kiến, quan điểm của họ. Từ đó thay đổi chính sách cho phù hợp, tiến hành dân chủ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Nhưng chính quyền đã sách nhiễu, bắt giam và cầm tù nhiều người vì việc bày tỏ ý kiến, quan điểm riêng của họ. Hầu hết những bloggers đều bị cáo buộc vi phạm Điều 88 Bộ luật hình sự với tội danh là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật hình sự trong đó có Điều 88 được Quốc hội ban hành năm 1985, đó là thời kỳ chiến tranh lạnh, nền kinh tế Việt Nam theo chế quan liêu bao cấp. Việt Nam chưa mở cửa và chưa tham gia hội nhập quốc tế. Thời kỳ đó báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại còn rất đơn sơ. Ở Việt Nam chưa có internet.
Ngày nay, mọi thứ đã thay đổi, chiến tranh lạnh đã kết thúc nhiều thập kỷ. Thế giới đã trở nên phẳng hơn. Báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại, internet đã phủ kín toàn cầu. Việt Nam đã mở và hội nhập toàn diện với thế giới. Sự phát triển của xã hội và những đòi hỏi dân chủ diễn ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhu cầu dân chủ hóa xã hội, tôn trọng các quyền con người về chính trị là khát khao, mong muốn của cả dân tộc Việt Nam. Việc duy trì chế độ chính trị độc đảng là không còn phù hợp với mong muốn của nhân dân. Do đó việc hủy bỏ những điều luật không còn phù hợp trong Bộ luật hình sự(Điều 79, 87, 88, 89,91, 258) là bước đi đầu tiên của tiến trình dân chủ hóa đất nước.
11. Tự do thông tin hay tự do ngôn luận có lợi và hại như thế nào đối với xã hội và sự phát triển của đất nước?
Tự do thông tin, tự do ngôn luận hay tự do bày tỏ về các vấn đề chính trị xã hội là huyết mạnh của bất cứ nền dân chủ nào. Patrick Wilson, người Canada, sáng lập ra chương trình truyền hình Đấu tranh cho Dân chủ nhận xét: “Dân chủ là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về các vấn đề chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con người tự quản được mình thì họ cần được tự do để thể hiện mình đã.”
Các chính phủ dân chủ thường không kiểm soát các bài phát biểu bằng lời hay bằng văn bản. Do vậy các công dân sống trong các Nhà nước dân chủ được tự do trao đổi về các tư tưởng và quan điểm từ đó chân lý và sự thật sẽ được tìm thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay tư tưởng khác biệt sẽ được nhận biết giá trị rõ hơn và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát triển sẽ được mở ra.
Hệ quả của tự do thông tin, tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp, họ được tự do tranh luận về mọi vấn đề của đất nước. Và từ đó họ sẽ đưa đòi hỏi thay đổi một cách ôn hòa chính phủ phải lắng nghe những mối bất bình của họ. Các cuộc tranh luận tự do và cởi mở sẽ dẫn tới việc xem xét lựa chọn tối ưu và chắc chắn sẽ tránh được những sai lầm nghiêm trọng. Từ năm 1859, một nhà triết học nổi tiếng người Anh John Stuart Mill đã chỉ ra trong bài viết “Bàn về tự do” rằng nhân dân sẽ bị tổn hại khi tự do ngôn luận bị đàn áp. “Nếu dư luận là đúng, họ bị tước đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu như dư luận là sai, họ mất đi cơ hội để có được nhận thức rõ rang hơn và mất cơ hội nhìn nhận sự thật sâu sắn hơn khi được đối chiếu với sai lầm.”
Rõ ràng, tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do do bày tỏ hoàn toàn có lợi đối với xã hội và sự phát triển của đất nước. Các đường lối, chính sách của chính phủ về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng không phải lúc nào cũng đúng đắn và chính xác. Do vậy chúng cần được người dân xem xét và tranh luận, khi đa số người dân thấy không phù hợp, họ cần được tự do bày tỏ sự phản đối ôn hòa của mình. Từ đó chính phủ biết đến để xem lại xét lại và sửa chữa trước khi quá muộn. Điều này giúp cho chính phủ có thêm kinh nghiệm trong việc ban hành các chính sách. Và người dân cũng được tham gia tích cực và hiệu quả trong việc quản lý, xây dựng đất nước.
Cẩm Nang Luật tập 3
Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền, 10 tháng 12 sắp đến đây, Luật của Sự Thật xin trân trọng giới thiệu đến quí bạn Tập 3 của cuốn cẩm nang “Luật cho Bạn và Tôi”. Tập 3 sẽ nói về quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin. Đây là một trong những quyền căn bản của con người về chính trị mà không thể bị hạn chế hay tước đoạt. Có lẽ trong tất cả các quyền căn bản được liệt kê trong Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị, thì đây là một trong những quyền mà thường bị các nhà độc tài hoặc các thể chế độc đảng vi phạm nhất. Lý do đơn giản là vì họ biết rằng khi khống chế hoặc độc quyền được truyền thông, tức là cấm sự thông tin đa chiều thì sẽ dễ dàng cai trị, hoặc có thể dẹp tan ngay những ý kiến trái ngược cho dù đây là những kiến nghị tích cực. Bưng bít thông tin hay độc quyền tuyên truyền là một phương tiện lợi hại và cần thiết để bảo toàn quyền lực của một chính phủ.
1. Trong Hiến Pháp và Luật Pháp Việt Nam có điều khoản nào bảo vệ quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin của người dân không?
Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin được qui định tại điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992. Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được cụ thể hóa trong luật báo chí năm 1989 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999. Luật thông tin đang Quốc hội Việt Nam soạn thảo.
Ngoài ra quyền tự do ngôn luận còn được bảo vệ theo qui định tại Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: “ (i) Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào; (ii) Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ban hành năm 2005 qui định tại khoản 6 Điều 3 như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Khoản 1 Điều 6 qui định: “ Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.”
Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị vào ngày 24 tháng 9 năm 1982.
Như vậy trong trường hợp các qui định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin chưa đầy đủ thì các qui định về điều này của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được áp dụng thay thế ở Việt Nam.
2. Quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin khác nhau ở chỗ nào? Và khi nói đến quyền tự do ngôn luận thì nó có bao gồm mọi phương tiện biểu đạt hay không, hay là luật pháp chỉ giới hạn trong một vài phương tiện truyền thông mà thôi?
Quyền tự do ngôn luận là công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, quan điểm của mình về tình hình đất nước và thế giới; công dân có quyền góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của đảng cầm quyền, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các thành viên của các tổ chức đó. Quyền này còn bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến khác nhau.
Quyền được thông tin là qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền phải thông tin đến người dân về các vấn đề của đất nước mà không thuộc bí mật quốc gia. Đồng thời luật pháp phải qui định trong một thời gian nhất định thì các cơ quan nhà nước, chính quyền phải tiến hành giải mã các thông tin mật đó và công bố cho nhân dân được biết. Khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận thì họ có quyền kết hợp cả qui định của luật pháp Việt Nam và qui định của Công ước quốc tế.
Như vậy công dân Việt Nam có quyền sử mọi hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ mà không phân biệt ranh giới quốc gia.
3. Hiện nay tại Việt Nam có quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin không?
Ở Việt Nam, trong Hiến pháp và pháp luật thì có ghi nhận quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin như đã trình bày trong câu số một. Đồng thời chính phủ Việt Nam luôn luôn tuyên bố họ tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin của người dân trong cuộc sống. Còn trong trong thực tiễn, theo quan điểm riêng của cá nhân tôi, thì tại Việt Nam quyền tự do ngôn luận và quyền được thông tin còn bị hạn chế.
4. Cả nước Việt Nam hiện nay có một cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào không, hay tất cả đều trực thuộc cơ quan nhà nước? Và nếu trực thuộc cơ quan nhà nước thì có sự độc lập trong vấn đề nội dung chuyển tải không hay tất cả đều phải thông tin tuyên truyền theo chỉ thị của Ban Tuyên Giáo Trung Ương?
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan truyền thông hay truyền hình tư nhân nào. Việt Nam có khoảng trên 600 tờ báo, đài phát thanh, truyền hình nhưng đều do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương quản lý và kiểm soát.
Những nội dung thông tin về những vấn đề chính trị nhạy cảm thì các cơ quan truyền thông phải thực hiện theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Thông tin và Ban tuyên giáo trung ương.
5. Nếu như tôi và một số bạn bè tôi muốn đề xuất một tờ báo thì tôi có cần phải xin phép hay không? Và nếu có thì phải xin phép cơ quan nào?
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định rằng công dân Việt Nam có quyền tự do báo chí. Tức là công dân Việt Nam có quyền bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình trên các phương tiện truyền thông hiện có và công dân Việt Nam có quyền thành lập báo chí tư nhân để bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình.
Nhưng trong luật báo chí năm 1989 chỉ qui định thủ tục cấp phép thành lập cơ quan báo chí cho tổ chức. Không có qui định thủ tục cấp phép thành lập báo chí cho công dân.
Do vậy bạn có quyền thực hiện quyền tự báo chí đã được qui định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 mà không cần phải xin phép.
6. Nếu như tôi cùng một số bạn bè đi phân phát những tờ bướm hay những tờ truyền đơn để cỗ vũ cho nhóm/hội hay một quan điểm chính trị ôn hòa nào đó thì việc này có được bảo vệ trong quyền tự do ngôn luận hay không?
Theo qui định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, qui định của Hiến pháp Việt Nam thì bạn có sử dụng mọi phương tiện khác nhau để bày quan điểm của mình và quan điểm của người khác hay quan điểm của một tổ chức chính trị ôn hòa nào đó. Miễn là nội dung của những tờ bớm hay truyền đơn đó không cổ vũ cho bạo lực, không đòi lật đổ chính quyền hợp hiến, không vu cáo, phỉ bang, không tục tục tĩu hay kích động các hành vi dâm ô, không kích thích sự thù hằn dân tộc…
7. Gần đây có một số tập truyện và sách xuất bản bị Sở Thông Tin cấm hoặc thu hồi lại vì nó phản ảnh thực trạng của xã hội. Vậy việc làm này của Sở Thông Tin có đúng với pháp luật Việt Nam không?
Theo qui định tại Điều 30 luật xuất bản năm 2005, cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện những xuất bản phẩm có vi phạm Điều 10 thì có quyền tạm đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy.
Điều 10 qui định như sau:
Những hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản:
1. Tuyên truyền chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục.
3. Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định.
4. Xuyên tạc sự thật lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.”
Trong thực tế có những cuốn sách phản rất đúng đắn thực trạng xã hội, được người dân yêu thích và tìm đọc. Trong khi chính quyền nhìn nhận dưới góc độ không có lợi chính thể độc đảng, họ cho rằng những cuốn sách như sẽ gây sự bất bình trong nhân dân với chính quyền. Do vậy cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào một trong bốn điểm trên của Điều 10 Luật xuất bản để đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, hoặc tiêu hủy.
8. Còn những phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog, .…thì sao? Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua những phương tiện này không?
Bạn có quyền tham gia, tự thành lập, kết nối bạn bè hoặc chuyển tải những thông tin qua các phương tiện mạng xã hội như web, facebook, blog,… khi nhà cung cấp dịch vụ được đặt ở một quốc gia khác. Bởi khi nhà cung cấp cho phép bạn sử dụng dịch vụ của họ thì họ đã được thành lập hợp pháp tại quốc gia đó. Nhà cung cấp dịch vụ và những dịch vụ mạng của họ mà bạn sử dụng chịu sự điều chỉnh của luật pháp nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký và chịu sự điều chỉnh của Công ước quốc tế.
Luật pháp Việt Nam không có điều nào cấm bạn sử dụng các phương tiện mạng xã hội của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như vậy.
Các nội dung thông tin mà bạn chuyển tải trên các phương tiện mạng xã hội thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi nhà cung cấp dịch vụ đăng ký. Luật pháp Việt Nam không thể kiểm soát các thông tin này.
9. Tại sao một số blogs, websites và ngay cả facebook bị chính quyền chặn tường lửa hoặc cấm không cho người dân vào xem? Và nếu như bạn bị công an bắt tra hỏi vì những bài vở bạn viết được đăng trên các mạng xã hội thì bạn phải ứng đối như sao? Bạn có phạm luật không khi làm những việc đó?
Trong một xã hội dân chủ, các quyền tự do ngôn luận và tự báo chí được tôn trọng và thực thi trên thực tế thì các phương tiện truyền thông trong quốc gia đó sẽ được tự đăng tải các thông tin, các quan điểm, ý kiến khác nhau, đối lập với nhau về cùng một vấn đề, một hiện tượng là việc bình thường. Người dân sẽ có điều kiện để tiếp cận và biết đến những ý kiến, quan điểm khác nhau về các vấn đề chính trị xã hội. Và như vậy người có đủ thông tin để đánh giá đúng những vấn đề đó. Điều này thúc đẩy xã hội phát triển một cách văn minh, đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Trong xã hội dân chủ, các thông tin, ý kiến, quan điểm đối lập được đăng tải công khai. Nó giúp cho đảng cầm quyền nhận ra những sai lầm, khuyết điểm của họ để họ sửa chữa, khắc phục trước khi quá muộn. Điều này sẽ đem lại lợi ích nhân dân và đất nước.
Ở Việt Nam đang duy trì chế độ chính trị độc đảng không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi các quyền con người. Để bảo đảm duy trì địa vị độc đảng của mình thì các cơ quan an ninh của đảng cộng sản phải ngăn chặn những thông tin đối lập, trái chiều không có lợi cho họ. Do vậy họ phải sử dụng kỹ thuật để lập nên những bức tường lửa ngăn chặn những blogs, websites, facebook,…
Trong khi sự hiểu biết về dân chủ, nhân quyền, thậm chí cả sự hiểu biết về pháp luật Việt Nam và quốc tế của cơ quan an ninh Việt Nam còn yếu kém. Bạn phải thận trọng khi sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình.
Bạn phải tuân thủ nguyên tắc là không bao giờ lưu giữ những thông tin, bài vở của bạn cũng như của người khác trong máy tính, trong nhà và nơi làm việc của bạn.
Khi bạn được cơ quan an ninh mời đi làm việc, họ sẽ in những bài viết trên blogs, websites, facebook, …. Họ sẽ hỏi bạn có biết những bài viết này không? Chúng có phải của bạn không? Bạn không có nghĩa vụ phải trả lời câu hỏi của họ. Trước hết bạn phải bình tĩnh hỏi lại họ là họ đã lấy những bài viết này ở đâu? Những blogs, websites, facebook,… đó có đăng ký ở Việt Nam không? Những blogs, websites, facebook, … đó có chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam không?
Bạn nên hiểu là nhà cung cấp dịch vụ cho bạn và những thông tin, bài viết của bạn trên đó là hoàn toàn hợp pháp theo luật pháp của nước nơi mà họ đăng ký, phù hợp với Công ước quốc tế. Đồng thời các trang blogs, websites, facebook,… không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân của mình sử dụng các trang blogs, websites, facebook của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Bạn không cần trả lời là biết hay không biết các bài viết đó. Bạn cũng không cần trả lời nó có phải của bạn hay không. Bạn không cần phải ký xác nhận các bài viết đó là không phải của bạn. Tóm lại bạn có quyền từ chối trả lời mọi câu hỏi của họ, từ chối mọi yêu cầu của họ. Việc bạn từ chối yêu cầu của cơ quan an ninh hoàn toàn không vi phạm pháp luật Việt Nam. Bạn có quyền tự bảo vệ mình bằng cách im lặng cho tới gặp luật sư của bạn.
Nếu cơ quan an ninh cố tình sử dụng các thông tin, bài viết trên các trang blogs, websites, facebook, … để chống lại bạn thì họ đã vi phạm pháp luật của nước mà nhà cung cấp dịch vụ cho bạn đăng ký, họ đã vi phạm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
10. Trong thời gian qua, có nhiều bloggers bị bắt và chịu án tù vì họ viết những bài bày tỏ quan điểm của mình qua những vấn đề như bô-xít, bảo vệ chủ quyền Việt Nam, hay phê bình tình trạng tham nhũng: Vậy họ đã vi phạm tội gì? Và điều luật 88 bộ luật hình sự nghĩa như thế nào?
Trong những năm qua có nhiều bloggers đã bởi lương tâm và trách nhiệm của mình với nhân dân và đất nước. Và họ đã có những bài viết bày tỏ quan điểm riêng tư của họ về những vấn đề xã hội như khai thác bô xít, tham nhũng hay bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những ý kiến, quan điểm của họ mang tính chất cá nhân, nhưng chúng lại phản ánh ý kiến, quan điểm và những bức xúc của đại đa số nhân dân. Thật đáng tiếc, lẽ ra chính quyền nên lắng những ý kiến, quan điểm của họ. Từ đó thay đổi chính sách cho phù hợp, tiến hành dân chủ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Nhưng chính quyền đã sách nhiễu, bắt giam và cầm tù nhiều người vì việc bày tỏ ý kiến, quan điểm riêng của họ. Hầu hết những bloggers đều bị cáo buộc vi phạm Điều 88 Bộ luật hình sự với tội danh là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật hình sự trong đó có Điều 88 được Quốc hội ban hành năm 1985, đó là thời kỳ chiến tranh lạnh, nền kinh tế Việt Nam theo chế quan liêu bao cấp. Việt Nam chưa mở cửa và chưa tham gia hội nhập quốc tế. Thời kỳ đó báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại còn rất đơn sơ. Ở Việt Nam chưa có internet.
Ngày nay, mọi thứ đã thay đổi, chiến tranh lạnh đã kết thúc nhiều thập kỷ. Thế giới đã trở nên phẳng hơn. Báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại, internet đã phủ kín toàn cầu. Việt Nam đã mở và hội nhập toàn diện với thế giới. Sự phát triển của xã hội và những đòi hỏi dân chủ diễn ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhu cầu dân chủ hóa xã hội, tôn trọng các quyền con người về chính trị là khát khao, mong muốn của cả dân tộc Việt Nam. Việc duy trì chế độ chính trị độc đảng là không còn phù hợp với mong muốn của nhân dân. Do đó việc hủy bỏ những điều luật không còn phù hợp trong Bộ luật hình sự(Điều 79, 87, 88, 89,91, 258) là bước đi đầu tiên của tiến trình dân chủ hóa đất nước.
11. Tự do thông tin hay tự do ngôn luận có lợi và hại như thế nào đối với xã hội và sự phát triển của đất nước?
Tự do thông tin, tự do ngôn luận hay tự do bày tỏ về các vấn đề chính trị xã hội là huyết mạnh của bất cứ nền dân chủ nào. Patrick Wilson, người Canada, sáng lập ra chương trình truyền hình Đấu tranh cho Dân chủ nhận xét: “Dân chủ là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về các vấn đề chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con người tự quản được mình thì họ cần được tự do để thể hiện mình đã.”
Các chính phủ dân chủ thường không kiểm soát các bài phát biểu bằng lời hay bằng văn bản. Do vậy các công dân sống trong các Nhà nước dân chủ được tự do trao đổi về các tư tưởng và quan điểm từ đó chân lý và sự thật sẽ được tìm thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay tư tưởng khác biệt sẽ được nhận biết giá trị rõ hơn và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát triển sẽ được mở ra.
Hệ quả của tự do thông tin, tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp, họ được tự do tranh luận về mọi vấn đề của đất nước. Và từ đó họ sẽ đưa đòi hỏi thay đổi một cách ôn hòa chính phủ phải lắng nghe những mối bất bình của họ. Các cuộc tranh luận tự do và cởi mở sẽ dẫn tới việc xem xét lựa chọn tối ưu và chắc chắn sẽ tránh được những sai lầm nghiêm trọng. Từ năm 1859, một nhà triết học nổi tiếng người Anh John Stuart Mill đã chỉ ra trong bài viết “Bàn về tự do” rằng nhân dân sẽ bị tổn hại khi tự do ngôn luận bị đàn áp. “Nếu dư luận là đúng, họ bị tước đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu như dư luận là sai, họ mất đi cơ hội để có được nhận thức rõ rang hơn và mất cơ hội nhìn nhận sự thật sâu sắn hơn khi được đối chiếu với sai lầm.”
Rõ ràng, tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do do bày tỏ hoàn toàn có lợi đối với xã hội và sự phát triển của đất nước. Các đường lối, chính sách của chính phủ về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng không phải lúc nào cũng đúng đắn và chính xác. Do vậy chúng cần được người dân xem xét và tranh luận, khi đa số người dân thấy không phù hợp, họ cần được tự do bày tỏ sự phản đối ôn hòa của mình. Từ đó chính phủ biết đến để xem lại xét lại và sửa chữa trước khi quá muộn. Điều này giúp cho chính phủ có thêm kinh nghiệm trong việc ban hành các chính sách. Và người dân cũng được tham gia tích cực và hiệu quả trong việc quản lý, xây dựng đất nước.
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét