Giới Thiệu

Blog Luật của Sự Thật là một trang blog đăng tải các tin tức bài vỡ liên quan đến những sự kiện bất công, lạm dụng luật pháp hiện đang xảy ra tại Việt Nam.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 1

Xin nhấn vào đây để đọc tập 1 về quyền biểu tình.

Chân dung ông Nguyễn Đức Kiên

Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 2

Xin nhấn vào đây để đọc tập 2 về quyền hội họp, lập hội, lập đảng.

Cẩm nang Luật cho bạn và tôi: Tập 3

Xin nhấn vào đây để đọc tập 3 về quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin.

29/10/12

Viết cho hai nhạc sỹ yêu nước trước phiên tòa của những kẻ bán nước xét xử người yêu nước


Hãy quy tụ về Sài Gòn vào ngày 30 tháng 10 năm 2012 để biến ngày những kẻ bán nước xét xử người yêu nước thành ngày hội non sông, để Sài gòn được trở lại với tên gọi muôn thuở của mình, giờ đây toàn dân Việt Nam đã mạnh dạn xác quyết rằng đất nước Việt Nam là của dân tộc Việt Nam, nhất định không phải là của đảng cộng sản. Nhạc sỹ yêu nước trẻ Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, những Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Đỗ Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Cù Huy Hà Vũ… là cháu con của Lê Lợi, Quang Trung, của Hưng Đạo, Phi Khanh, của Bà Trưng, Bà Triệu… là những tinh hoa của giống nòi Lạc Việt, họ không phải là những kẻ bán nước buôn dân. Những trang sử vàng của dân tộc Việt sẽ ngàn đời ghi tên của họ, bởi lịch sử đã sản sinh ra họ để họ làm nên lịch sử cho giống nòi Lạc Việt...

-------
Hôm 16 tháng 10 vừa qua, tòa án nhân dân Thành Phố vừa thông báo sẽ đưa hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình ra xét xử tại Sài Gòn vào ngày 30 tháng 10 sắp tới, với tội danh mà cơ quan an ninh điều tra đã quy kết cho 2 nhạc sỹ yêu nước này là "tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, theo khoản 2 điều 88 Bộ luật hình sự của nhà nước cộng sản Việt Nam."

Nhiều người Việt trong và ngoài nước bắt đầu biết đến hai nhạc sỹ trẻ tuổi yêu nước Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình sau những cuộc biểu tình của những người yêu nước ở quốc nội phản đối hành động gây hấn của tà quyền Trung Cộng đối với việc cưỡng chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng như nhiều vụ đâm chìm tàu của ngư dân Việt, bắt giữ ngư dân đòi tiền chuộc, trấn cướp ngư cụ, hải sản và bắn giết ngư phủ Việt Nam. Những ca khúc nói lên nỗi lòng ưu tư của của hai nhạc sỹ trẻ đối với quê hương đất nước và dân tộc trước hiểm họa mất nước và trước sợ thờ ơ của nhà cầm quyền trước hiểm họa này là bằng chứng để tòa án của nhà cầm quyền cộng sản kết các anh tội tuyên truyền chống nhà nước.

Cả hai nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang đều sinh ra khi quê hương đã không còn tiến súng, các anh lớn lên khi đất nước đã thanh bình để không còn phải nghe tiếng đại bác ru đêm, không còn phải nhìn thấy:

"Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng.

Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.

Xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa.

Trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu"...

Cùng thế hệ với chúng tôi, Anh Bình, Việt Khang đều được hấp thu nền giáo dục XHCN rằng phải

"Yêu tổ quốc, yêu đồng bào

Học tập tốt, lao động tốt

Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt

Giữ gìn vệ sinh thật tốt

Khiêm tốn, thật thà và dũng cảm"

Rằng "Yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội".

Và rằng "Có sách mới áo hoa ấy là nhờ ơn đảng ta… Vui tung tăng hoan ca có đảng cuộc đời nở hoa…" Vâng, mỗi ngày đều đặn trong tuần, suốt mỗi niên khóa học, thế hệ chúng tôi đều được "đảng và bác" nhồi sọ như vậy về tình yêu nước, yêu đảng và yêu "bác" Hồ. Vậy hà cớ gì Việt Khang và Anh Bình lại "tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam"?

Tôi xin khẳng định rằng không hề có bất kỳ một "thế lực thù địch" nào lôi kéo, kích động những người thuộc thế hệ 7X chúng tôi cả mà đó chính là những trải nghiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng tôi: Cảnh hàng ngàn dân oan hàng ngày đến trước các cơ quan công quyền để khiếu kiện vì bị những kẻ cường hào ác bá đoạt nhà, cướp đất. Đó là cảnh hàng ngày vẫn đập vào mắt chúng tôi với hàng trăm cụ già, thiếu phụ và cả những trẻ em đang ở độ tuổi cắp sách đến trường nhưng lại phải sống kiếp cái bang, phải dãi dầu mưa nắng đeo bám các du khách, chèo kéo, van lơn để được nhận những đồng tiền bố thì cũng với thái độ rẻ khinh...

Chúng tôi đau xót không chỉ cho những mãnh đời đói nghèo, bất hạnh đó, mà chúng tôi đau xót cho cả dân tộc này, tại sao, vì đâu đã dựng nước đã giữ giữ nước bốn ngàn năm rồi mà đất nước cứ phải nhược tiểu, nghèo hèn, dân chúng cứ phải đói rách lầm than? Sao từ quan chức chính phủ cho đến thảo dân bần cùng trong xã hội đều phải sống đời ăn mày, sống kiếp ăn xin, cầu cạnh ngoại bang?

Đó là những trải nghiệm của chúng tôi khi cuộc sống hàng ngày cứ đầy dẫy trên mặt báo những trang tin về các công nhân, viên chức, những sinh viên học sinh cho đến những bà đồng nát, những nông dân trong buổi nông nhàn bị công an bắt quả tang khi đang trai trên gái dưới tại nhà hàng này, khách sạn nọ khi đang hớp tác mua bán dâm, bởi đâu, vì ai?

Đó là những trải nghiệm của chúng tôi trong cuộc sống hàng ngày về những cảnh người dân thấp cổ bé họng bị các lực lượng công an đánh đập hành hung, trấn lột mà không ít nhưng người bị câu lưu đến đồn công an để thẩm cung, rồi hôm sau được trả lại cho gia đình bằng một xác chết đã tím bầm, tanh lạnh.

Đó là những trải nghiệm của thế hệ chúng tôi về những phiên tòa mà cán cân công lý chỉ nghiêng về kẻ mạnh, nghiêng về phía kẻ nắm quyền, bị cáo là những dân lành vô tội, những người yêu nước thương nòi, xót đau cho quê hương điêu tàn cho dân tộc lầm than cho sơn hà nguy biến. Dĩ nhiên, nhiều người hay gần như cả dân tộc Việt Nam phẫn nộ trước cảnh lộng quyền và bạo ác đó, nhưng mỗi người có một tầng bậc xúc cảm khác nhau để có những kiểu phản ứng khác nhau, có người chỉ lặng im trong niềm đắng cay sâu thẳm trong lòng, có người sôi giận đến tím ruột bầm gan, nhưng họ không biết phải bày tỏ thế nào, bởi họ biết rằng những nhà tù những trại những xà lim những ngục tối được xây dựng khắp nơi đang đón chờ những người khác tiếng nói với nhà cầm quyền mà cùng tâm tư tình cảm với những người yêu nước. Và cũng có nhiều người chẳng bày tỏ điều gì nhưng không phải là họ không có lòng hờn căm hay không biết phẫn nộ… chỉ bởi họ quá ngán ngẩm mà không biết phải nói gì…

Riêng Anh Bình và Việt Khang có được những ân tứ đặc biệt để nói thay cho triệu triệu đồng bào về nỗi lòng của họ đối với đất nước, với quê hương. Tội gì? Tội yêu nước thương dân? Tội trăn trở ưu tư khi bao người dân vô tội chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu? Tội đã không làm ngơ trước ngoại xâm? Tội đã đứng lên đáp lời sông núi? Tội kêu gọi già trẻ gái trai giơ cao tay chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam? Hay Việt Khang đã có tội khi anh không thể ngồi yên khi Việt Nam đang ngả nghiêng? Hay Việt Khang đã phạm tội anh tiên nghiệm được rằng dân tộc Việt Nam sắp phải đắm chìm một ngàn năm hay triền miên tăm tối? Sao xuống đường để tỏ bày tình yêu quê hương, dân tộc lại bị giam cầm? Hay Việt Khang đã phạm pháp thì tiên nghiệm được rằng cháu con chúng ta sẽ là một thế hệ người Việt không cội nguồn khi thế giới đã không còn hai tiếng Việt Nam?

Còn nghịch lý nào hơn thế nữa không trên đất nước này khi yêu nước là có tội, khi lên tiếng khẳng định chủ quyền biển đảo của tổ quốc là bị tù đày? Khi xuống đường phản đối quân xâm lược đang lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải của quê hương và đang bắn giết đồng bào mình là bị đạp vào mặt, bị bắt bớ giam cầm? Sao nhà tù lại giành cho người yêu nước và công lý lại thuộc về những kẻ bán nước buôn dân? Sao những kẻ mãi quốc cầu vinh lại được quyền xét xử và kết tội những nhà ái quốc?

Dân tộc Việt Nam, 90 triệu đồng bào Việt nam còn có thể tiếp tục im lặng, làm ngơ, vô cảm được nữa không trước cái hung ác của bạo quyền? 90 triệu đồng bào Việt Nam còn có thể tiếp tục nhắm mắt, bưng tai để cho cái ác lại cứ đắc thắng trước cái thiện nữa hay không?

Liệu nhà nước cộng sản Việt Nam có đủ số lượng nhà tù nhỏ để giam cầm cả 90 triệu dân không? Liệu những "thanh gươm bảo vệ chế độ" có đủ khả năng để tận diệt hết cả 90 triệu người dân yêu nước hay không? Liệu đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam có dám biến Sài gòn ngày 30 tháng 10 năm 2012 thành một Thiên An Môn của ngày 04 tháng 6 năm 1989 hay không?

Đã đến lúc toàn dân Việt đứng lên đáp lời sông núi!

Đã đến lúc toàn dân Việt sống thật với chính mình,

Đừng sợ những gì cộng sản làm mà hãy làm những gì cộng sản sợ!

Hãy quy tụ về Sài Gòn vào ngày 30 tháng 10 năm 2012 để biến ngày những kẻ bán nước xét xử người yêu nước thành ngày hội non sông, để Sài gòn được trở lại với tên gọi muôn thuở của mình, giờ đây toàn dân Việt Nam đã mạnh dạn xác quyết rằng đất nước Việt Nam là của dân tộc Việt Nam, nhất định không phải là của đảng cộng sản. Nhạc sỹ yêu nước trẻ Việt Khang, Anh Bình, những Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Đỗ Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Cù Huy Hà Vũ… là cháu con của Lê Lợi, Quang Trung, của Hưng Đạo, Phi Khanh, của Bà Trưng, Bà Triệu… là những tinh hoa của giống nòi Lạc Việt, họ không phải là những kẻ bán nước buôn dân. Những trang sử vàng của dân tộc Việt sẽ ngàn đời ghi tên của họ, bởi lịch sử đã sản sinh ra họ để họ làm nên lịch sử cho giống nòi Lạc Việt.

Ngày 19 tháng 10 năm 2012

28/10/12

Các ông Cục Trưởng, Viện Trưởng nói chuyện “tiếu lâm” về dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận!



Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hùng (Danlambao) - "Quan điểm của Việt Nam là: Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận là dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam nên cần thực hiện hết sức chặt chẽ. Việc chuẩn bị đầu tư và đầu tư phát triển các dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 phải bảo đảm được ba yêu cầu cơ bản là: Bảo đảm an toàn, an ninh cao nhất. Thực hiện đúng quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về đầu tư xây dựng và phù hợp với tài liệu hướng dẫn của IAEA. Yêu cầu thứ ba là dự án phải có hiệu quả kinh tế."


Đó là ba yêu cầu của lãnh đạo Việt Nam trước khi đi đến quyết định có nên phát triển dự án nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam hay không, được nêu ra trong bài phóng sự của phóng viên Hồng Vân, báo Nhân Dân ngày 25/10/2012.

Thử xem dự án điện hạt nhân Việt Nam có bảo đảm thỏa mãn ba yêu cầu cấp thiết và rất quan trọng này không.

Bảo đảm an toàn an ninh cao nhất:

Cho đến thời điểm này ông Trần Trí Thành, Viện Trưởng Viện Năng Lượng Hạt Nhân, tại cuộc trao đổi với báo chí trong cuộc họp báo giới thiệu Triển lãm quốc tế "khuyến mãi" điện hạt nhân 2012 tại Hà Nội - thị trường nhà máy điện hạt nhân béo bở dễ ăn dể bảo trị giá tổng cộng hơn 30 tỷ USD, cho biết họ vẫn còn đang đi lanh quanh. Ông Trần Trí Thành nói đang "tìm hiểu và lựa chọn công nghệ mới và an toàn nhất cho dự án hạt nhân của nước ta". Cho đến khi nào mới tìm ra được một công nghệ tuyệt đối an toàn như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đại diện đảng và nhà nước Việt Nam yêu cầu, trong khi ai ai đều biết rằng không có một công nghệ điện hạt nhân nào trên thế giới trong lúc này và cả sau này sẽ tuyệt đối an toàn. Ngay đến dư luận hiện nay trong cả nước như báo điện tử Vietnam Net cho biết an toàn hạt nhân là vấn đề "NÓNG", đồng nghĩa với chưa biết rõ có được an toàn hay không, chứ không nói đến tuyệt đối an toàn!

Chúng ta có thể kết luận rằng cho đến thời điểm này chưa có công nghệ nào BẢO ĐẢM AN TOÀN AN NINH CAO NHẤT chứ chưa nói đến ANTOÀN TUYỆT ĐỐI như theo yêu cầu của lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, và "nếu không tuyệt đối an toàn thì không làm" theo lệnh của Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang.

Thực hiện đúng qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam về vận hành và sản xuất điện hạt nhân:

heo bài vết trên báo Nhân Dân ngày 25/10/2012: Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam Trần Chí Thành cho biết Việt Nam đang trong quá trình xây dựng văn bản pháp quy về điện hạt nhân, và sẽ cập nhật những quy chế được thắt chặt của IAEA.

Như vậy là cho đến thời điểm này tại Việt Nam vẫn chưa có một bộ luật hay pháp qui nào qui định về vận hành và sản xuất năng lượng hạt nhân. Có chăng chỉ là thỏa thuận ban đầu với chính phủ Nhật Bản trong thời gian gần đây qua đó chính phủ Nhật Bản giúp soan thảo pháp qui về năng lượng hạt nhân.

Việt Nam chưa có các pháp qui về xây dựng, vận hành, an toàn, giãi quyết các chất phế thải phóng xạ (rác phóng xạ), chế độ bồi thường và qui trách nhiệm mà chúng ta lại giao khoán cho các tập đoàn sản xuất và lấp ráp toàn quyền làm theo ý của họ theo kiểu chìa khóa trao tay mà nhiều công trình xây dựng tại Việt Nam đang bị chết dở sống dở vì bên nhà thầu xây dựng chơi xấu, là việc làm tắc trách. Đặc biệt nguy hiểm hơn đối với dự án nhà máy điện hạt nhân với kỹ thuật vô cùng phúc tạp và đòi hỏi trình độ cao của viên chức kiểm tra mà Việt Nam bây giờ và trong một thời gian nhiều năm nữa cũng không có ai có đủ khả năng và kinh nghiệm vận hành nhà máy điện hạt nhân.

Chúng ta lại một lần nữa có thể kết luận là không có gì bảo đảm rằng các tập đoàn thầu xây cất nhà máy điện hạt nhân thực hiện đúng hay sai hay thiết bị lấp ráp không bị tráo đổi và rút ruột, vì Việt Nam KHÔNG có pháp qui về năng lượng hạt nhân để làm thước đo việc thực hiện công trình là ĐÚNG!

Bảo đảm dự án phải có hiệu quả kinh tế

"Chưa xác định giá thành nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam!"

Đó là một phần của câu trả lời có thể nói rằng rất "tiếu lâm" của ông Viện Trưởng Viện năng lượng nguyên tử Trần Trí Thành trước câu hỏi của phóng viên về giá thành của nhà máy điện hạt nhân khi bổ sung công nghệ mới đã được Việt Nam tính toán chưa?

Một dự án khổng lồ với chi phí cho mỗi nhà máy khoản 10 tỷ USD theo dự tính ban đầu, và tất cả khoảng 30 tỷ USD cho 3 nhà máy như theo kế hoạch, mà những người lãnh đạo dự án lại vô tư tuyên bố "chưa" xác định giá thành. Thật là không tưởng tượng nổi tư duy "tiền chùa", "tiền âm phủ" và kinh doanh theo định hướng XHCN – con chung không ai khóc - của họ.

Kinh nghiệm về xây cất nhà máy điện hạt nhân tại các nước tiên tiến Âu Mỹ, cho thấy việc các tập đoàn thầu xây dựng NMĐHN lập lờ trong các hợp đồng ĐHN là rất tràn lan. Hậu quả là giá thành nhà máy điện hạt nhân bị nâng giá lên thêm từ 30% đến 50% trên giá thỏa thuận ban đầu.

Không những giá thành của nhà máy điện hạt nhân chưa xác định, chi phí giải quyết chất thải rác nguyên tử, cơ sở nhà máy sẽ rất tốn kém, tương đương với chí phi xây dựng ban đầu. Nguồn kinh phí này sẽ đền từ đâu trong khi đất nước đang nghèo đói. Ngoài ra phải cần một thời gian ít nhất 30 năm với chi phí tương đương với giá thành khi xây nhà máy (hơn 10 tỷ USD cho mỗi nhà máy) để thu dọn nhà máy và làm sạch (?) môi trường với hàng ngàn tấn rác nguyên tử đầy phóng xạ chết người cần phải có nơi an toàn để chôn cất trong nhiều thế kỷ, mà trên đất nước nhỏ hẹp Việt Nam không có nơi nào đủ điều kiện để chứa loại rác diệt chủng này! Nước Đức, Mỹ đang điên đầu với rác nguyên tử vì không tìm được nơi đủ an toàn để chứa các thanh nhiên liệu và chất thải hạt nhân.

Chúng ta lại một lần nữa kết luận rằng dự án điện hạt nhân không có chứng cứ thuyết phục là hiệu quà kinh tế vì ngay đến giá thành của dự án cũng không thể xác định là 10 tỷ, 15 tỷ hay 20 tỷ USD cho mỗi nhà máy thì làm sao tính toán được hiệu quả kinh tế của dự án.

Đại diện cơ quan quản lý Việt Nam lại cứ vô tư cho biết Việt Nam vẫn thực hiện đúng lộ trình trước đó, và nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ được khởi công vào năm 2014. Đây là lời tuyên bố vô trách nhiệm, vi phạm nghiêm trọng các điều kiện mà lãnh đạo đảng và nhà nước đề ra, đặc biệt ba yêu cầu cơ bản được nêu bên trên.

Dự án phát triển điện hạt nhân Việt Nam không bảo đảm được ba yêu cầu tối thiểu này thì không có lý do gì được phép thực hiện bằng mọi giá như theo phát biểu của ông Trần Trí Thành, ban quản lý dự án và các nhóm lợi ích điện hạt nhân trong và ngoài nước.

Đất nước Việt Nam nghèo khổ bất hạnh không thể nào cứ tiếp đi theo vết xe đổ của các tập đoàn nhà nước Vinashin, Vinaline, Petrovietnam, Than và Khoáng sản, Điện Việt Nam, hệ thống ngân hàng…. Khi mà nhà máy điện hạt nhân đổ -nổ - thì không chỉ quăng qua cửa sổ vài chục ngàn tỷ như các tập đoàn mà nó sẽ xóa sổ cả đất nước Việt Nam.

Con đường duy nhất cho dự án điện hạt nhân là phải hủy bỏ nó vĩnh viễn! Không những đất nước và dân tộc tránh được tai họa kinh tế, mà quan trong nhất là tránh nguy cơ thảm họa hạt nhân có thể đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc.


Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hùng

Ai là kẻ có tội?

Lê Chinh Vũ (Danlambao) - Lại thêm một người Việt bị kết tội chống đối chính quyền nhân dân. Lần này một sinh viên chỉ mới có hai mươi tuổi, Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm TP Hồ Chí Minh. Theo nguồn tin này Phương Uyên sẽ bị kết tội theo điều 88 của Bộ Hình Luật Việt Nam (1999, sửa đổi năm 2009).

Điều 88 của Bộ Hình Luật Việt Nam quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” như sau:

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;

c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.

Như vậy nếu bị kết án Phương Uyên có thể ngồi tù 12 năm.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao một nữ sinh viên, tuổi đời còn nhỏ, tương lai còn dài lại phải rước lấy tai họa cho mình như thế này? Tất cả mọi thứ trên cuộc đời này xảy ra đều phải có lý do của nó!

Nhưng trước khi trả lời câu hỏi này chúng ta thử tìm hiểu thế nào là chính quyền nhân dân?

Một chính quyền chỉ được coi là một chính quyền nhân dân khi họ là những người đại diện chân chính do nhân dân bầu ra, lấy lợi ích của nhân dân và quyền lợi đất nước làm chỉ nam cho mọi chính sách của mình. Một chính quyền nhân dân phải thực sự là những công bộc của nhân dân. Không những thế cần phải biết lo trước cái lo của nhân dân, vui sau cái vui của nhân dân. Biết tôn trọng mạng sống của nhân dân, biết đặt quyền lợi của tồ quốc và nhân dân lên trên quyền lợi của cá nhân và đảng phải của mình. Một chính quyền không mang những đặc tính này không thể được coi và dĩ nhiên càng không thể tự xưng mình là chính quyền nhân dân được. Đây là chưa nói đến sự việc một chính quyền sẵn sàng sử dụng bạo lực, bắt bớ và tù đày để trấn áp nhân dân nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm lợi ích và đảng phái của mình như hiện nay thì càng chắc chắn không thể được coi là chính quyền nhân dân! Một chính quyền nhân dân cũng không bao giờ úp mở, che đậy tội lỗi của nhau như tuồng hát vụng về “Chúng ta tha cho chúng mình” tại Hội Nghị Trung Ương 6 vừa qua.

Thực tế mà nói là đến ngày hôm nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) và cái gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không còn một chút gì nể trọng trong lòng nhân dân chứ đừng nói là chính quyền nhân dân. Một chính quyền nhân dân mà nhìn đâu củng chỉ thấy “các thế lực thù địch”! Tại sao?

Câu hỏi kế tiếp cần phải được trả lời là “tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân” (nếu thật sự có) có nặng tội bằng cái tội phản quốc hay không?

Điều 78 Hình Luật quy định tội phản bội Tổ quốc như sau:

1. Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Căn cứ vào điều khoản này thì các Bộ Chính Trị của ĐCSVN từ Hội Nghị Thành Đô lần thứ nhất (1990) sẽ phải trả lời trước tòa án trong tương lai một loạt các tội phạm được liệt vào loại này: cắt đất (1999), nhượng biển (2000), cho Trung Quốc thuê hằng chục nghìn mẫu rừng đầu nguồn dài hạn, cho Trung Quốc vào khai thác bauxite tại Tây Nguyên, cho in cờ Trung Quốc sáu sao để tiếp Tập Cẩm Bình (2011). Ai ra lệnh đục khoét bia tưởng niệm các bộ đội hy sinh trong cuộc chiến với Trung Quốc năm 1979? Thêm vào đấy, ai đang tạo ra đại nạn tham nhũng đục khoét một cách không thương tiếc tài nguyên đất nước hiện nay? Tất cả những việc làm này, trực tiếp hay gián tiếp, đều có thể liệt vào tội phản quốc căn cứ vào điều luật nói trên,.
 

27/10/12

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nhận định về Hội nghị Trung ương 6

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh....
Hoàng Long: Hoàng Long xin kính chào quí thính giả của Đài Radio Chân Trời Mới. Kính thưa quí thính giả, trong những ngày qua khi Hội nghị 6 Trung Ương Đảng CSVN (HN 6) đã kết thúc thì chúng ta thấy có nhiều dư luận trong và ngoài nước rất sôi nổi với nhiều nhận định khác nhau. Hoàng Long đang có trên đường dây điện thoại ông Nguyễn Trọng Vĩnh. Ông là cựu Thiếu tướng Quân đội Nhân dân và cũng là Đại sứ toàn quyền của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1974 đến năm 1987 tạ Trung Quốc. Năm nay Cụ cũng đã gần 97 tuổi, và chúng tôi đang nối đường dây với Cụ từ Hà Nội. Trước hết xin kính chào sức khỏe Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh.

Thưa ông Nguyễn Trọng Vĩnh, về HN 6 vừa qua, xin Cụ cho biết cảm giác của tập thể đảng viên - đặc biệt các vị mà chúng ta thường gọi là lão thành cách mạng – ra sao sau khi nghe kết luận của HN 6 là không kỷ luật bất kỳ ai của HN 6 vừa rồi?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Hôm nay tôi tiếp xúc với nhiều đảng viên và nhiều người thì tôi thấy người ta đều biểu thị là rất thất vọng và mất hết lòng tin sau khi HN TƯ 6 kết thúc. Thế còn lão thành cách mạng chúng tôi thì trước đây đã có ý kiến đề nghị với HN, với TƯ là phải cho đồng chí Nguyễn Tấn Dũng thôi đi bởi vì dân không còn tín nhiệm nữa, và vì điều hành công việc vấp váp nhiều quá; ví dụ như đồng chí quản lý các tập đoàn nhà nước như Vinashin, Vinalines bị thất thoát hàng nghìn tỉ của nhân dân. Và thứ hai là dưới sự điều hành công việc của đồng chí thì kinh tế của nước nhà càng ngày càng suy sụp, cho nên trước đây lão thành chúng tôi có đề nghị là cho đồng chí nghỉ đi; nhưng đáng tiếc là sau HN 6 thì có nghị quyết là không thi hành hay chỉ trích về vấn đề đồng chí Nguyễn Tấn Dũng thực hiện nhiệm vụ."

Hoàng Long: Thưa Cụ, lý do được đưa ra để không kỷ luật là để tránh các "thế lực thù địch" xuyên tạc đánh phá, như vậy có phải đây là một qui luật mới không; và điều này có nghĩa là lúc vẫn còn các "thế lực thù địch" thì miễn kỷ luật? Và hình như trong suốt lịch sử đảng CSVN chưa có lúc nào mà đảng không có các "thế lực thù địch", Cụ nghĩ ra sao ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cũng chẳng biết bây giờ người ta cứ gọi "thế lực thù địch" là ai... thì lúc nào người ta muốn đàn áp nhân dân thì người ta kêu là "đừng để thế lực thù địch nó phá", thì tôi cũng không hiểu họ nhận định thế lực thù địch là ai?

Hoàng Long: Nếu Cụ là một đảng viên kỳ cựu của ĐCSVN mà chính Cụ cũng không nhìn ra được "thế lực thù địch" là ai thì Cụ có nghĩ rằng... là một bộ phận của nhân dân mà họ đã bắt giam trong những cuộc xuống đường tại thủ đô Hà Nội và Tp. Sài Gòn để chống sự bánh trướng của Bắc Kinh không, thưa Cụ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Trước đây tôi đã viết một bài "Thế lực là ai cả" <...nghe không rõ...>; thế lực chính là người láng giềng lớn đã lũng đoạn kinh tế của chúng ta, đã chiếm lĩnh các cứ điểm chiến lược quan trọng của chúng ta, và đã đưa ô ạt hàng vạn người vào đất nước của chúng ta; và bây giờ hàng ngày đe dọa hoành hành ở Biển Đông, ức hiếp ngư dân của chúng tôi, rồi đòi lấn chiếm cả Trường Sa, Hoàng Sa. Hoàng Sa thì họ đã lấn chiếm rồi, còn Trường Sa [họ] cũng đòi lấn chiếm nốt. Trong một bài trước đây viết trên mạng tôi đã nói đấy là lực lượng thù địch chứ không phải ai cả. Tôi muốn nói người láng giềng to lớn chính là những người lãnh đạo chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung Quốc đấy.

Hoàng Long: Trong quá khứ Cụ đã có một thời gian khá dài là Đại sứ đặc nhiệm toàn quyền của nước Việt Nam tại Bắc Kinh. Trong suốt khoảng thời gian dài đó nhiều người lầm tưởng rằng Cụ có một đường lối thân Bắc Kinh, nhưng ngược lại chúng tôi nhận thấy rằng Cụ phê phán một cách rất thẳng thừng về những thái độ bánh trướng này của nhà cầm quyền Bắc Kinh, thì Cụ trả lời ra sao ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã biểu thị nhiều lần trên mạng rồi, tôi đã nói rằng Bắc Kinh trước kia đã giúp chúng tôi trong cuộc chống Pháp, chống Mỹ, nhưng họ có lợi ích và động cơ của họ. Họ luôn luôn muốn nước chúng tôi yếu để phụ thuộc vào họ và đến khi không vừa ý họ thì họ đã đem quân đánh chúng tôi năm 1979. Cho nên chúng tôi nói rằng không còn họ đánh chúng tôi, giết hại dân chúng tôi, tàn phá 6 tỉnh biên giới của chúng tôi – thì không còn tình nghĩa gì nữa đâu, và coi như món nợ chúng tôi đã trả rồi đấy.

Hoàng Long: Trở lại với HN 6 TƯ vừa rồi, nếu BCT với một kết luận bao gồm 100% số phiếu mà không kỷ luật được ai, thẩm chí đến tên của ông Nguyễn Tấn Dũng cũng không được nhắc đến, thế thì từ nay trở đi chúng ta có còn hy vọng gì, hoặc còn cấp nào cao hơn nữa để nói đến việc thực sự muốn diệt tham nhũng tại Việt Nam hay không ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Nghị quyết TƯ 4, cũng như đồng chí Tổng bí thư và đồng chí Chủ tịch nước đã nói rằng một số không nhỏ đảng viên thoái hóa biến chất, suy đồi về đạo đức và lối sống; và đồng chí Chủ tịch nước thì nói rằng bây giờ có một số bầy sâu. Nếu đồng chí Nguyễn Phú Trọng nói không có ít đảng viên thoái hóa biến chất thì những người đó tất yếu phải là những người có chức có quyền, chứ còn đảng viên thường và dân thường thì làm gì có điều kiện để tham nhũng tham ô. Cuối cùng thì HN 6 vừa rồi hoặc qua cuộc kiểm điểm vừa rồi cũng chẳng lôi ra được ai là người thoái hóa biến chất, và cũng chẳng kỷ luật được ai cả. Ông Sang thì nói cả một bầy sâu nhưng cũng chẳng thấy bắt được con sâu nào trong những người nắm quyền.

Hoàng Long: Theo Cụ thì tình hình Việt Nam sau HN 6 sẽ ngã ngũ ra sao? Có phải rằng nay trở đi, ai có đủ phương tiện và tiền bạc để nắm đa số các ủy viên Trung ương đảng thì sẽ là người có uy quyền tuyệt đối hay không ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Đúng là bây giờ đồng tiền thống trị đấy.

Hoàng Long: Một câu hỏi chót xin gởi đến Cụ là, đối với xã hội Việt Nam, việc ông Nguyễn Tấn Dũng được tiếp tục điều hành đất nước ở vai trò thủ tướng sẽ có ảnh hưởng thế nào đến tình trạng kinh tế, đến tình trạng cướp bóc đất đai, và ngay cả việc bảo vệ chủ quyền đất nước không chỉ trên Biển Đông mà ngay cả trên đất liền của Việt Nam, theo Cụ có gì thay đổi không ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cho rằng chẳng có gì thay đổi.

Hoàng Long: Nếu vậy thì quyết định cuối cùng của HN 6 vừa rồi, Cụ có nghĩ rằng đây là một quyết định đúng đắn của TƯ ĐCSVN không?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Như tôi có nói trước đây, tôi đã gặp nhiều đảng viên và nhiều người dân người ta đều thấy thất vọng về HN TƯ lần thứ 6. Thế đã rõ ràng là người ta cho là không đúng rồi.

Hoàng Long: Cụ có đôi lời muốn nói với đồng bào Việt Nam trên cả nước về những suy nghĩ của Cụ ngay sau HN 6 này không ạ?

Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi chỉ muốn nói là đồng bào Việt Nam chúng ta luôn luôn phải đấu tranh cho lẽ phải, đấu tranh cho những gì đúng đắn và luôn luôn tìm cách để làm sao cho đất nước chúng ta thoát khỏi khủng hoảng và tiến lên.

Hoàng Long: Xin cảm ơn Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh đã trả lời cuộc phỏng vấn với những nhận định cá nhân về hậu HN 6 TƯ ĐCSVN.

Nguyễn Trọng Vĩnh: Cám ơn ông.

Sửa đổi Hiến Pháp - Quan điểm của một nghiên cứu sinh Luật

Nguyễn Hoàng Lan, một nghiên cứu sinh làm việc tại Trung tâm Dân chủ Lập hiến Đại học Indiana.

Hiện trạng Việt Nam sau Đại Hội lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản, sau khi lãnh đạo cao nhất nước công khai thừa nhận đã phạm sai lầm nghiêm trọng nhưng không bị kỷ luật, đã nêu bật nhu cầu phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực và sửa đổi Hiến Pháp.
Theo Nguyễn Hoàng Lan, một nghiên cứu sinh làm việc tại Trung tâm Dân chủ Lập hiến Đại học Indiana, thì nhu cầu đó một mặt, xuất phát từ thực tế cuộc sống, từ việc Việt Nam gia nhập cộng đồng quốc tế và cần tuân thủ các nguyên tắc pháp lý quốc tế, và mặt khác, xuất phát từ tình trạng các cơ quan công quyền, các quan chức địa phương và trung ương “lợi dụng luật pháp để hành xử tùy tiện, gây bất công xã hội, như thu hồi đất đai hay tham nhũng lạm quyền," dẫn tới nhu cầu phải sửa đổi Hiến Pháp về quyền sở hữu đất đai cũng như cơ chế kiểm soát quyền lực của nhà nước.
Sửa đổi Hiến pháp
Cô Hoàng Lan nói: “Nhu cầu sửa đổi hiến pháp tại thời điểm này nó là nhu cầu xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong đó không có ai có quyền đứng trên Hiến Pháp và pháp luật. Nhưng theo Lan thì nhu cầu sửa đổi Hiến Pháp lần này nó còn xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa hơn về chính trị. Cụ thể là bản Hiến Pháp hiện hành nó gây cản trở cho các cải cách cấp thiết. Đó là bởi vì cái nhãn quan chính trị làm nền tảng cho bản Hiến Pháp hiện nay nó không phù hợp và thậm chí, đi ngược lại nguyện vọng và nhu cầu của xã hội. Cụ thể là bản Hiến Pháp hiện nay chủ yếu vẫn dựa trên mô hình dân chủ tập trung và tư tưởng chuyên chính vô sản kiểu Xô-viết Nga, trong khi đó thì xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21 cần tự do và cần có một nền kinh tế thị trường mở, cần một hệ thống chính trị có cạnh tranh để mà có người tài lên lãnh đạo đất nước, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực để mà tránh tham nhũng.”
Cô Hoàng Lan lưu ý rằng Hiến Pháp năm 1959 áp đặt mô hình theo kiểu Xô-viết Nga, và các bản Hiến Pháp sau này của Việt Nam tiếp tục theo mô hình đó, trong khi người dân chưa bao giờ được quyền phúc quyết bản hiến pháp, vẫn được coi như “một khế ước qua đó nhân dân thỏa thuận trao quyền cho nhà nước, và cùng lúc hạn chế quyền lực nhà nước bằng cách thiết lập các cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực, quy định các quyền cơ bản của nhân dân”. Cô Hoàng Lan nói chính vì lý do đó mà sửa đổi Hiến Pháp tại thời điểm này vô cùng quan trọng, bởi vì nó sẽ quyết định tính chính danh của chế độ.
Cô nói tiếp: “Nếu bản Hiến Pháp đó chưa bao giờ được nhân dân phúc quyết thì cũng có nghĩa là quyền lực của nhà nước hiện nay chưa bao giờ được sự chuẩn thuận của nhân dân. Thì nói lần sửa đổi Hiến Pháp lần này sẽ sửa những gì, sửa như thế nào, và có được nhân dân phúc quyết hay không, thì nó sẽ quyết định cái tính chính danh.”
Vậy đâu là những vấn đề gây nhiều bức xúc, cần phải sửa đổi cấp bách nhất? Trả lời câu hỏi này, cô Lan cho biết:
“Theo suy nghĩ của Lan cũng như là qua sự quan sát các cuộc thảo luận ở trong nước thì cần phải thiết lập cơ chế tam quyền phân lập giữa 3 ngành lập pháp, hành pháp và tòa án, cần phân định quyền lực rõ ràng giữa trung ương và địa phương, cần có một hệ thống tòa án độc lập để đảng cầm quyền không thể can thiệp vào ngành tòa án. Ngoài ra thì người ta cũng đang nói đến khả năng Đảng Cộng Sản phải tách ra khỏi nhà nước để trở thành một thành phần bình đẳng với các thành phần khác trong đời sống chính trị xã hội, chứ Đảng Cộng Sản không thể tiếp tục là một cái bộ máy chuyên quyền, đứng trên pháp luật, đứng trên cả nhân dân.”
Nhưng làm thế nào để thực hiện tam quyền phân lập trong khi quyền lực tập trung trong tay một đảng, hay một nhúm người trong Bộ Chính Trị?
“Câu hỏi của chị chính là cái câu trả lời... Không thể có tam quyền phân lập trong chế độ một đảng. Không thể nào có kiểm soát quyền lực khi chỉ có một đảng độc quyền chính trị. Như Lan đã nói thì vấn đề sửa đổi Hiến Pháp nó không chỉ là một vấn đề về pháp lý mà nó còn là vấn đề bản chất của chế độ chính trị, và cái nhãn quan về chính trị của đất nước. Đảng Cộng Sản thì vẫn giữ cái não trạng dân chủ tập trung, vẫn giữ chế độ độc đảng để bảo vệ cái quyền lợi kinh tế cũng như quyền lợi về chính trị của họ, nhưng mà nhân dân bây giờ người ta đang nghĩ về dân chủ rất là khác. Họ đang đòi hỏi một chế độ dân chủ với một nhà nước có quyền lực hạn chế, có cạnh tranh chính trị, không thể chỉ có một đảng. Chính cái đòi hỏi về tam quyền phân lập nó thể hiện cái đòi hỏi về kiểm soát và hạn chế quyền lực, mà hạn chế và kiểm soát quyền lực không thể thực hiện được trong một chế độ độc đảng.”
Một số sự kiện xảy trong quá khứ, như vụ Đoàn Văn Vươn, đã gây phẫn nộ cao độ trong dân chúng, đưa đến nhu cầu sửa đổi Hiến Pháp về quyền sở hữu đất đai, đi kèm theo là vấn đề bình đẳng giữa kinh tế quốc doanh và tư nhân và vấn đề bảo vệ môi trường, Ngoài ra, Hoàng Lan cũng điểm qua một nhu cầu đặc biệt quan trọng khác:
Cần có một cơ chế thi hành Hiến Pháp, một tòa án Hiến Pháp...thay vì đặt những quyền này vào tay Quốc hội...
Hoàng Lan.
“Cần có một cơ chế thi hành hiến pháp, một tòa án Hiến Pháp hoặc là một cơ chế để mà trao quyền tài phán Hiến Pháp cho Tòa án Tối cao thay vì đặt những quyền này vào tay Quốc hội hay là Ban Thường vụ quốc hội như hiện nay.”
Một quyền khác đang được thảo luận sôi nổi cả trong nước lẫn ngoài nước là quyền được biểu tình, để người dân có thể nói lên nguyện vọng của họ về một vấn đề cá biệt nào đó. Hoàng Lan cho biết ý kiến của cô về quyền này:
“Đó dứt khoát là một quyền quan trọng cần phải nêu bật rõ ràng hơn, và đặc biệt là cần phải có một cơ chế thi hành để mà bảo vệ những cái quyền đó.”
Trong Hiến Pháp hiện hành, có những mâu thuẫn giữa lời lẽ trong văn bản tối cao của quốc gia với những thực tế chính trị hay thực tế pháp lý thực sự xảy ra. Một trong những mâu thuẫn này có liên quan tới Điều 4 Hiến Pháp, quy định quyền độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hay nói cách khác, của 14 ủy viên trong Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong khi đảng trước sau vẫn tuyên bố rằng quyền làm chủ là thuộc về người dân. Hoàng Lan cho biết ý kiến về điều 4 Hiến Pháp, điều đang gây tranh luận gay gắt:
“Lan cho rằng một điều khoản như vậy nó rất là mâu thuẫn, nó đi ngược lại cái bản chất của nhà nước cộng hòa bởi vì ai cũng biết là trong một nhà nước cộng hòa thì cái chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, và người dân bầu các lãnh đạo qua các kỳ bầu cử tự do và công bằng. Cũng chính cái điều 4 này nó sẽ làm cho cái mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở trong Điều 2 Hiến Pháp nó sẽ khó thực hành, không trở thanøh hiện thực được tại vì chính Điều 4 Hiến Pháp nó khiến Việt Nam trở thành một nhà nước Đảng trị thay vì một nhà nước pháp trị.”
Hiến Pháp là văn kiện tối cao, chi phối toàn bộ xã hội về mọi phương diện, văn kiện này cam kết bảo vệ các quyền công dân và nhân quyền, nhưng trên thực tế nhiều người đã và đang bị sách nhiễu, đàn áp chỉ vì hành xử các quyền đã được ghi trong Hiến Pháp, thế thì dựa vào thực tế đó, nên rút tỉa bài học nào khi soạn thảo Hiến Pháp mới? Cô Hoàng Lan nói Hiến Pháp là một điều kiện cần, nhưng bên cạnh đó, còn phải có một điều kiện đủ:
“Nói Hiến Pháp là một điều kiện cần bởi vì là nếu chỉ có một đảng nắm quyền như Việt Nam hiện nay thì chẳng có cái gì ngăn chận họ chà đạp lên Hiến Pháp hay vi phạm quyền của nhân dân. Chính thực tế ở Việt Nam như ngày nay, cái thực tế mà chị vừa nói đó, nó chính là cái bằng chứng sống cho cái tình trạng đó. Thì bên cạnh cái Hiến Pháp là điều kiện cần, thì cần có một điều kiện đủ. Cái điều kiện đủ đó chính là một cơ chế chính trị mở, tự do và có cạnh tranh. Không có cách nào khác để bảo vệ Hiến Pháp, bảo vệ cái nguyện vọng của nhân dân ngoại trừ cơ chế chính trị đó. Phải có một số nguyên tắc căn bản không thể nào bị vi phạm, ví dụ như thứ nhất, phải có bầu cử tự do và công bằng để người dân có thể truất phế lãnh đạo chính trị, những người mà coi thường nhân dân và vi phạm quyền của nhân dân. Điều thứ hai là cần phải có một xã hội dân sự lành mạnh, không bị kiểm duyệt, không bị theo dõi, không bị đàn áp. Điều thứ 3 là để có hai điều mà Lan vừa nói, bầu cử tự do và một xã hội dân sự lành mạnh, thì nhất thiết là một số quyền dân sự căn bản như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tự do báo chí, nhất thiết cần được bảo đảm.”
Thưa quý thính giả, vừa rồi là ý kiến của Hoàng Lan, một nghiên cứu sinh đang bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật tại Đại học Indiana. Cô Hoàng Lan tốt nghiệp Cử nhân Luật, Đại học Rennes bên Pháp, có 2 bằng Thạc sĩ Luật tại Đại học Panthéon-Assas và Đại học Paris, hiện đang bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật chuyên về Hiến Pháp Dân chủ Lập hiến tại Đại học Indiana. Cô cũng là thành viên của Ban nghiên cứu pháp luật của Đảng Dân Chủ Việt Nam.

25/10/12

Blogger Bà Đầm Xòe Là Ai?

Bài viết sau đây của anh Nguyễn Đình Ấm, một người đồng môn của Blogger Bà Đầm Xòe. Nhân sự việc hội nghị BCHTW6 vừa họp, chính sự còn nhiều điều bàn cãi. Trong giới giang hồ chính trị luận, có một nhân vật "Minh Râu" nổi lên vì sự thạo tin và những những dự báo đầy tranh cãi. Anh Nguyễn Đình Âm đã viết bài sau đây kể vài nét về thân thế và bản tính con người Blogger Bà Đầm Xòe. (tự Minh Râu), xin đăng để hầu quý vị quan tâm.
Sau khi đăng bài "Đừng quá quan tâm đến ôngBa Dũng làm thủ tướng hay không" trên blog Huỳnh Ngọc Chênh, nhiều người quen, bạn bè tới tấp hỏi, phone, mail…muốn biết "chân dung" về kẻ huyênh hoang đòi thủ tướng khen thưởng kiểu "tay không bắt giặc"(không có hồ sơ xin xỏ, thủ tụcđầu tiên…). Vậy xin mấy lời về hắn.

Hắn, tức Phạm Thành, là chủ blog "Bà đầm xòe"đã hai lần bị đánh sập, tên khai sinh là Phạm Chí Thành, quê châu Hoan, học cùng khóa báo 3 với người viết bài này. Từ thời là SV hắn đã có tính ngang tàng, chẳng thấy nói thầm bao giờ. Hắn cãi cả thầy giáo dạy môn Mác-Lê. Có bài giảng về đấu tranh giai cấp, CNXH,…ai cũng thấy nội dung, lý sự vớ vẩn nhưng"kệ thây" cốt cho qua cốt đủ điểm ra trường "làm ăn lương thiện" nhưng hắn thì lý sự lại làm nhiều khi thầy phải ngắc ngứ. Giờ giải lao thoắt đã thấy hắn ở quán nước ngoài đường, chuyện trò bô bô, hết giờ chính trị mới lại mò về...Người bảo hắn "ăn to, nói lớn" kẻgọi hắn là ngang tàng, lộng ngôn…

Vừa rồi không hiểu linh cảm giỏi hay "chó ngáp phải ruồi" mà hắn đã nói "y phom" từ đại cụcđến chi tiết kết cục Hội nghị BCT và BCHTƯ6 trong đó nổi bật là việc đoán trúng thắng lợi của thủ tướng. Hắn viết loạt bài đăng tùm lum trên mạng phân tích cái"kém bản lĩnh" của BCT, thế, lực của Thủ tướng góp phần "định hướng" cho BCHủng hộ ông Dũng dẫn đến ông ta thắng lợi từ một tháng trước... Hắn cho đó là có công với thủ tướng nên đòi khen thưởng.

Hắn thường nhìn chế độ XHCN ưu việt, "dân chủ gấp vạn lần" nước tư bản của chúng ta với con mắt "bất kính" kể cả khi xã hội còn có chút sạch. Hắn có Hậu Chí Phèo, sách xuất bản cách nay đã hơn 20 năm. Trong sách đó hắn ám chỉ lãnh đạo Việt Nam như là bọn vô học- Chí Phèo. Ấy mà hắn không hề hấn gì. Rồi hắn viết bài, trả lời phỏng vấn tùm lum, tum la lên án cái xã hội cộng sản bất công đủ kiểu mà cũng không ai "chấp". Những gì hắn nói, hắn viết thường khác người. Nhiều bạn bè ngạc nhiên hỏi nhau "sao hắn chưa bị tóm?". Dọa hắn "liệu khăn gói quả mướp mà vào nhà đá", hắn bảo: "Bắt cái con "tự do" tao đây này. Tao làm gì có chỗ trong ấy". Cứ bắt tù tao đi, cứ năm tù ông viết được cuốn sách hay, bán ối tiền uống bia…

Mặc dù hắn tùm lum tùm la như thế, nhưng có lúc hắn ngấp ngé chức phó tổng biên tập, đã làm thư ký tòa soạn một tờ báo của chính phủ, nhưng vì hắn nhất quyết không vào đảng lại viết bài lên án TQ xâm lược, chê lãnh đạo sợ mất ghế…đăng trên mạng nên bị bãi chức. Bãi chức nhưng hắn cùng chẳng hề hấn gì, người ta vẫn phải dùng lại còn khen ngợi hắn đủ đường. Có lẽ vì tính ngang tàng trong khi lãnh đạo nơi hắn và giới truyền thông đầy "tì vết" nên sợ nếu trị hắn thì "đánh chuột vỡ bình" đành cứ phải "ngậm đắng nuốt cay" lựa hắn mà giữ ghế...

Nay thì hắn mới về hưu. Quyền lợi hắn đủ cả, cũng Việt -Xô chữa bệnh, cũng huân huy chương, giấy khen đủ loại. Nhân việc hai blog Bà Đàm Xòe của hắn bị đánh sập, hẳn nghỉchơi blog luôn và nói tập trung vào viết sách vở "độc" gì đó. Kích hắn là "kém, sợ…" thì hắn hứa hai tháng sẽ khôi phục BĐX. Hãy chờ xem hắn có "nhất ngôn"không.

Làm người ai cũng lo cái ăn, cái mặc, làm giàu không cho mình thì cho cha mẹ, vợ con, nhưng xem ra hắn chẳng màng đến mánh gì kiếm tiền. Hắn bảo, số ta "hết lại có, có nhiều dễ biến thành họa". Cuối đời công tác, sắp về hưu túi hắn chẳng có món tiền nào phòng thân, nhưng bỗng nhiên được thể phét lác: Bất ngờ có một người bạn biếu hắn khoản tiền lớn (so với những kẻ không biết kiếm tiền), đủ cho hắn dưỡng già và nuôi con nhỏ trưởng thành.

Hắn là kẻ nhiễu sự kỳ quặc, có khi cái to thì cho là bé và ngược lại. Hôm trước hắn cùng tôi và vài bạn bè về thăm quê hương của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ở xứ nghệ. Giữa núi rừng trầm mặc uy nghiêm, tôi đưa máy ảnh lên ngắm hắn để chụp chân dung ở trạng thái tự nhiên thì bất ngờ nhận ra hắn có nhiều nét giống "Minh râu" (Mời bà con xem ảnh). Hắn tỏ ra rất tự hào về điểm ngẫu nhiên vớ vẩn này liền đưa cho tôi xem bức ký họa hắn do họa sĩ Đặng Huy Quyến vẽ. Ngạc nhiên? Giống quá. Hắn còn kể, lần khác, khi họa sĩ Ngô Chính ký họa hắn, họa sĩ cũng phảỉ ồ lên: "Ồ, khôngđược rồi, giống "Minh râu" quá. Để tao vẽ lại". Ngô Chính lại hạ bút vẽ bức thứ hai. Một lúc sau lại thấy Ngô Chính thốt lên: "Ô, bỏ mẹ, kiểu gì mày cũng giống Minh râu" (mời các bạn xem hai ký họa của HS Ngô Chính). Và đề cho mọi người khỏi nhầm lẫn hắn còn yêu cầu họa sĩ Ngô Chính ghi vào cả hai ký họa: "BàĐầm Xòe Phạm Thành không phải Minh râu".

Hắn có vẻ tự hào việc "giống Minh râu" và cho đó là bí quyết để đoán trúng những "đại sự" như vừa rồi.

Hãy chờ xem hắn có tài thật hay không. Nhanh thôi, vì xứ Việt ta đâu thiếu việc "đại sự" trong khi lãnh đạo chuyên dấm dúi, chẳng việc gì công khai minh bạch. Phải chăng đó là "đất sống"của những kẻ hay đoán sự đời đòi khen thưởng kiều "tay không bắt giặc" như hắn?

Quyền Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí


LS Nguyễn Văn Đài: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền con người không thể bị tước đoạt. Bởi vậy nó được bảo vệ không chỉ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia là Hiến pháp mà còn được bảo vệ ở Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị do Liên Hiệp Quốc ban hành.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1992 qui định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…”
Điều 4 luật Báo chí cụ thể hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận như sau :
“1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.”
Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị:
 “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Theo các qui định của Hiến pháp, luật Báo chí và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Chúng ta đều nhận thức rằng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy đủ của các quyền con người. Chúng cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Chúng cần thiết cho tất cả các xã hội tự do và dân chủ. Hai quyền này liên quan chặt chẽ với nhau, chúng cung cấp phương tiện cho việc trao đổi và phát triển ý kiến.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nguyên tắc minh bạch, cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả thể chế chính trị, pháp luật, văn học(sáng tác thơ, ca,…), nghệ thuật,… Không có sự hạn chế nào. Nhà nước không được áp đặt hay ép buộc công dân chỉ được bày tỏ quan điểm, chính kiến theo một chiều. Công dân có quyền giữ quan điểm chính trị của mình mà không bị can thiệp. Họ có quyền tự do lựa chọn thay đổi quan điểm bất cứ khi nào và vì bất cứ lý do gì.Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không bị giàng buộc bởi đường biên giới quốc gia.
Công dân được sử dụng mọi phương tiện truyền thông như báo giấy, báo điện tử, radio, truyền hình, internet,… để thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình. Một nền báo chí hay truyền thông tự do, không bị kiểm duyệt hay bị cản trở là cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Đó là trụ cột của một xã hội dân chủ. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho mọi công dân có thể tiếp cận và sử dụng các phương tiện đó.
Công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để yêu cầu, kiến nghị việc sửa đổi hay bãi bỏ bất kỳ điều nào trong Hiến pháp cũng như trong các bộ luật. Không có điều nào trong Hiến pháp là điều cấm mà công dân không có quyền kiến nghị sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Công dân sử dụng quyền tư do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ mong muốn thay đổi, cải cách hệ thống chính trị nhằm đáp ứng các quyền tự do dân chủ cũng như lợi ích của nhân dân. Công dân có quyền bày tỏ ước muốn xây dựng nền chính trị đa nguyên, đa đảng.
Do đó, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được qui định trong Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế để bảo đảm rằng chính quyền phải tôn trọng và không được xâm phạm đến quyền của công dân.
Và trách nhiệm của chính quyền là:
Chính quyền cũng như cả hệ thống chính trị từ trung ương đến các địa có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cũng như có trách nhiệm bảo vệ mọi công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong bình luận chung số 34 về điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Hội đồng nhân quyền LHQ trong phiên họp 102 từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 7 năm 2011. Mục số 7 và 8 nêu rõ:
“7. Nghĩa vụ tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu đạt là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Quốc gia thành viên như một chỉnh thể. Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính phủ, dù ở cấp độ nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của Quốc gia thành viên. Các trách nhiệm đó cũng có thể phát sinh với một Quốc gia thành viên trong một số trường hợp nhất định liên quan đến các chủ thể có tư cách bán nhà nước. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nào của cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh hưởng xấu đến việc thụ hưởng các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt đến mức độ những quyền theo Công ước này dễ bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng của các cá nhân hoặc pháp nhân thuộc khu vực tư.
8.         Các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng các quyền trong Điều 19 của Công ước có hiệu lực trong hệ thống nội luật của quốc gia, và có tinh thần nhất quán với những chỉ dẫn của Ủy ban trong Bình luận chung số 31 về bản chất của các nghĩa vụ pháp lý chung đối với Nước thành viên Công ước….”
Những trở ngại khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong những năm vừa qua, đã có nhiều công dân khi sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ quan điểm chính trị đối lập, phê phán những sai lầm, yếu kém, tham nhũng của đảng Cộng sản. Một số nghệ sĩ như Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình chỉ sáng tác những ca khúc bày tỏ những trăn trở với vận mệnh đất nước. Nhưng tất cả họ đã bị truy tố và xét xử với mức án nặng nề theo điều 88 bộ luật Hình sự. Ngoài gia hàng trăm người khác thường xuyên bị sách nhiễu.
Do vậy điều 88 bộ luật Hình sự là trở ngại cho công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các hành vi chống nhà nước của điều 88 được hệ thống các cơ quan tư pháp của Việt Nam hiểu, giải thích và áp dụng như sau: Hành vi tuyên truyền nhằm làm giảm lòng tin với đảng CS, với chế độ XHCN, phá hoại sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong xã hội, xâm phạm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân và chế độ XHCN. Hành vi xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của đảng CS và nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, công chức nhà nước,… Hành vi lợi dụng những tiêu cực, khoét vào những khó khăn trước mắt, thổi phồng những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, làm cho người khác không tin vào chế độ, và sự lãnh đạo của đảng CS, sự quản lý điều hành của bộ máy nhà nước.
Khi chúng ta đối chiếu nội hàm của điều 88 bộ luật Hình sự với điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí, điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Thì chúng ta thấy rằng chính quyền cũng như các cơ quan tư pháp của Việt Nam đã diễn giải điều 88 bộ luật Hình sự nhằm bóp chết quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Do vậy điều 88 bộ luật hình sự là VI HIẾN, nó chống lại điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sư và chính trị.
Lòng tin của nhân dân với đảng Cộng sản phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức của mỗi đảng viên và cả tập thể đảng Cộng sản. Còn lòng tin của nhân với chế độ XHCN  phụ thuộc vào việc nó có mang lại quyền bình đẳng và quyền làm chủ đất nước của nhân dân hay không. Đảng Cộng sản không thể áp đặt tuyệt đối tư tưởng chính trị của mình lên toàn bộ xã hội. Còn các đường lối, chủ trương,  chính sách của đảng Cộng sản, của chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,…có thể đem lại lợi ích cho một bộ phận người dân này, nhưng với những người khác thì ngược lại. Những người được hưởng lợi thì họ ủng hộ, còn những người mất lợi ích thì họ có quyền phản đối. Những tiêu cực, sai lầm, khuyết điểm của chính quyền thì có nhưng người đánh giá không đáng kể, còn những người khác họ có quyền đánh giá là nghiêm trọng, tùy theo cách nhìn của mỗi người. Hoặc chế độ XHCN được nhiều người dân cho là phù hợp, và họ ủng hộ. Nhưng với rất nhiều người khác họ cho là không phù hợp và họ có quyền tự do phê phán, đả kích, thậm chí họ có quyền đòi hỏi thay đổi. Cùng một sự việc, một hiện tượng, nhưng mỗi người dân có những cách nhìn, quan điểm khác nhau. Nhóm này đồng ý, ủng hộ. Nhóm khác không đồng ý và phản đối.
Và nếu tất cả mọi công dân đều sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để ca ngợi và bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ, đảng Cộng sản và chế độ XHCN. Chắc chắn chính quyền không bao giờ trừng phạt họ. Và quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không cần thiết được bảo vệ bởi Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế. Nhưng ở Việt Nam cũng như trên thế giới, công dân thường sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ sự bất bình, sự phản đối, chỉ trích hay phê phán những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của chính phủ, chế độ XHCN. Trách nhiệm của chính quyền là bảo vệ và tôn trọng quyền tự do ngôn luận của cả nhóm công dân ủng hộ và nhóm công dân phản đối.
Làm thế nào để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân được tôn trọng và bảo vệ?
Nếu đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Quốc hội Việt Nam phải tiến hành hủy bỏ điều 88 bộ luật Hình sự, bởi đây là một điều luật vi hiến. Trong khi việc này chưa sảy ra thì chính phủ phải trả tự do cho tất cả những người đang bị giam giữ, bị cầm tù theo điều 88 bộ luật Hình sự, bãi bỏ quản chế với những người đã hết án tù. Chấm dứt sách nhiễu với những công dân đang thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hà nội, ngày 24 tháng 10 năm 2012
Luật sư Nguyễn Văn Đài

Xây dựng văn hóa nhân quyền cho Việt Nam thời kì mới.


Lê Quang Việt (LCST) - Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Cho nên, xét đến cùng, xây dựng nền văn hóa mới là nhằm tạo ra những con người Việt Nam mới thấm nhuần tinh thần dân tộc và những giá trị nhân quyền phổ quát của nhân loại để rồi các thế hệ người Việt Nam sẽ nối tiếp gây dựng và phát triển một nền văn hóa có bản sắc riêng, có khả năng đối thoại, hội nhập với thế giới, trong đó mỗi người dân Việt Nam đều coi sự tôn trọng những chuẩn mực nhân quyền như một phương cách sống.

Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”…Tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.

Nhân quyền là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Một xã hội muốn được coi là công bằng, dân chủ, văn minh thì trước hết trong xã hội đó phải tôn trọng quyền con người. Quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm.

Xây dựng một văn hóa nhân quyền mục tiêu là đưa những chuẩn mực nhân quyền thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển của đất nước Việt Nam.

Văn hóa nhân quyền chung nhất là một tổng thể phức hợp hệ thống khái niệm liên quan đến nhân quyền được sử dụng chung, chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cho các cộng đồng vừa mang tính chung vừa mang tính đặc thù riêng. Tổng thể  khái niệm phức hợp những khái niệm sử dụng chung về nhân quyền đề cập đến rất phong phú gồm các bình diện như: Tăng cường sự tôn trọng quyền con người và tự do cơ bản; Phát triển toàn diện nhân cách và hiểu biết về sự tôn nghiêm của nhân cách; Tăng cường hiểu biết và sự khoan dung, bình đẳng giới, tình hữu nghị của các dân tộc, dân bản xứ, giữa các nhóm nhân chủng, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ; Đảm bảo để mọi công dân đều có khả năng tham gia hiệu quả vào xã hội tự do và dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; Xây dựng và gìn giữ hòa bình; Đẩy mạnh được sự phát triển duy trì được vị trí con người là trung tâm và chính nghĩa trong xã hội…

Xây dựng một văn hóa nhân quyền nhằm đến việc tăng cường tính bất phân chia và phổ biến của con người, đẩy mạnh sự đa dạng và phản đối sự phân biệt đối xử đối với mọi sự khác biệt, bên cạnh đó tăng cường phân tích đến quyền con người bao gồm cả nghèo đói và bất bình đẳng, trao quyền cho xã hội khu vực và cá nhân tự làm rõ quyền con người. Hơn nữa trên cơ sở nguyên tắc về con người bắt nguồn từ tình trạng văn hóa khác nhau, thúc đẩy việc sử dụng các văn bản về quyền con người và các cơ quan liên quan ở mọi cấp từ địa phương đến quốc tế. Trong thực tiễn giáo dục theo mô hình tham gia, nhằm nuôi dưỡng môi trường dạy học tự do, xúc tiến giáo dục quyền con người trong mối liên quan tới cuộc sống hằng ngày.

Mục tiêu mà chương trình thế giới về nhân quyền nhắm đến là bắt tay vào giáo dục quyền con người trên cơ sở văn hóa nhân quyền thế giới, cụ thể là những nguyên tắc cơ bản về quyền con người đã được quốc tế nhất trí. Bài viết cũng cho rằng việc giáo dục quyền con người bao gồm hai hướng, một là từ dưới lên (địa phương), hướng ngược lại từ quốc tế hướng xuống cuộc sống từng cá nhân. Chương trình thế giới về nhân quyền đặc biệt nhấn mạnh tới hiện thực xung quanh vấn đề quyền con người trong xã hội quốc tế và tiêu chuẩn nhân quyền đã được xác lập, nhằm đến mục tiêu làm cho chúng được ý thức hàng ngày và trở thành hiện thực dưới từng con người cụ thể để vận dụng hiệu quả vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày ở từng địa phương.

Việc sáng tạo và xây dựng  văn hóa nhân quyền phong phú trên thế giới chính là mục tiêu của giáo dục quyền con người và văn hóa nhân quyền ở  đây có thể có hai mặt. Mặt thứ nhất là tính đặc trưng riêng, tính độc đáo của quyền con người thể hiện ở khái niệm về quyền con người khác nhau bắt nguồn từ mỗi vùng đất và con người, là giá trị ưu tiên liên quan đến tính tôn nghiêm của con người, là cách nắm bắt sự vi phạm nhân quyền. Mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền trong thế giới hàng ngày (tính riêng-đặc thù của văn hóa nhân quyền). Mặt thứ  hai là tính phổ biến của quyền con người thể  hiện ở tiêu chuẩn đã được nhất trí, xác lập trên trường quốc tế về quyền con người. Mặt này được gọi là văn hóa nhân quyền thế giới (tính chung-phổ biến của văn hóa nhân quyền). Những điều được thể hiện trong mục tiêu và nguyên tắc của Chương trình thế giới chính là văn hóa nhân quyền thế giới.

Một điều phải nhận thấy là những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người ở Việt Nam chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, gây tổn hại không nhỏ đến niềm tin của nhân dân. Công tác xây dựng môi trường văn hóa trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế. Tình trạng quan liêu, tham nhũng và suy thoái lối sống, đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức, có quyền chưa được ngăn chặn. Nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội và sự lan tràn các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mê tín, dị đoan, thấp kém, lai căng, độc hại. Còn thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác động tích cực và sâu sắc đối với việc giáo dục con người.Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục.

Tôi không khỏi băn khoăn khi đọc một bài viết trên trang báo Dân trí đưa tin : “Một thiếu nữ bị bạo hành dã man giữa Thủ đô”.  Hay báo chí Việt Nam vừa qua đưa tin rất nhiều vụ xâm hại tình dục với trẻ em dưới 16 tuổi mà không biết đó là tội phạm. Nhưng các nạn nhân cũng như kẻ gây tội phạm đều bảo không biết đó là vi phạm quyền con người và ngay cả các viên chức công an cũng không nắm vững các nguyên tắc chữa trị con người, họ đã dùng súng bắn vào người dân như tại Bình Phước vừa qua, trưởng công an đã bắn vào dân và người dân cũng sẵn sàng dùng xe tải, xe con, xe máy… húc vào công an mỗi khi vi phạm trên đường bị truy bắt.

Tất nhiên trên sự đồng thuận về các giá trị phổ quát, nhưng mỗi quốc gia với những thách thức riêng của mình nên ưu tiên các mục tiêu trước sau nhưng căn bản vẫn là tôn trọng con người nhằm thỏa mãn các khát vọng chính đáng diễn ra trong trật tự với các tổ chức xã hội dân sự thì luôn luôn được hoan nghênh và trân trọng!

Giải pháp nào cho tương lai?


Ngày nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa cũng như sự phát triển nhảy vọt của các phương tiện thông tin, đặc biệt là Internet, giới trẻ có thể tiếp nhận nhanh chóng các trào lưu văn hóa cũng như cách sống, cách ứng xử và cả những phong tục đã trở thành nếp sống của giới trẻ ở nhiều nước. Có thể nói giáo dục nhân quyền là nền tảng đồng thời là một trụ cột chính của phát triển con người và cũng là một mục tiêu cơ bản trong các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Giáo dục là một quyền con người cơ bản, hướng tới phát triển đầy đủ nhân cách con người, thúc đẩy sự tôn trọng tất cả các quyền và tự do cơ bản, cũng như tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các quốc gia. Mục tiêu đặt ra là các công dân Việt Nam phải được trang bị kiến thức để điều chỉnh hành vi ứng xử chính bản thân cũng như hướng tới cộng đồng. Ngay từ gia đình phải giải quyết ngay các vấn đề bất bình đẳng, nạn bạo lực gia đình, tệ phân biệt đối xử nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền và an ninh cho con người. Sự phổ biến nhân quyền giúp mọi người tôn trọng, không phân biệt đối xử với các sắc dân, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, người lớn tuổi, dân tộc thiểu số, vấn đề tình dục, và người di cư.

Vi phạm nhân quyền một phần nguyên nhân là do trình độ thấp, chính là hậu quả của nội dung đào tạo không phù hợp và chất lượng kém. Giáo dục chất lượng cao là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trong quá trình thực thi và duy trì nhân quyền. Tôi muốn đề cập đến thách thức của quốc gia này là phải cải thiện chất lượng giáo dục, đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng và nhu người dân. Giáo dục để phát triển con người cũng như phục vụ sự phát triển của quốc gia. Có như vậy mới đảm bảo được Việt Nam có tiếng nói và vị trí đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Tăng cường thúc đẩy đối thoại giữa các thành phần khác nhau của xã hội và mở rộng sự tham gia của công chúng trong sự phát triển của chính sách nhân quyền. Chính các công dân là động lực quan trọng để xác định các ưu tiên nhân quyền trong nước và thiết lập các mục tiêu ràng buộc theo thời gian và các chương trình hầu đáp ứng chún Xác định đường hướng rõ ràng qua kế hoạch nhân quyền quốc gia, tất yếu sẽ dẫn theo ngay tức khắc bộ mặt văn minh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong bài viết này, tôi xin nhấn mạnh để xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trước hết phải bắt đầu từ văn hóa chính trị. Những nỗ lực nhằm phát triển các yếu tố khác trong hệ thống chỉ có ý nghĩa thực sự khi có một văn hóa chính trị lành mạnh. Một nền văn hóa lành mạnh chỉ có thể khi được đặt trong một hệ thống xã hội lành mạnh. Trong đó,phải xây dựng được những người lãnh đạo, với tấm gương sáng về nhân cách và trí tuệ  là nhân tố quan trọng cho việc định hướng dân tộc trên con đường phát triển, xây dựng một môi trường văn hóa để nuôi dưỡng cho những giá trị dân tộc. Xây dựng nền văn hóa nhân quyền không thể tách rời với xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, giáo dục, xây dựng nền tảng đạo đức dân tộc và tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc. Chỉ có như vậy, nền văn hóa nhân quyền Việt Nam mới hình thành nên những thế hệ người Việt Nam có khát vọng, lý tưởng, trung thực, sáng tạo, nối tiếp nhau phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện đại, hòa nhịp với dòng chảy chung của nhân loại, là động lực mạnh mẽ cho công cuộc hiện đại hóa đất nước.

Hà Nội, ngày 23 tháng 10 năm 2012

Lê Quang Việt


22/10/12

Đang làm rõ những đối tượng liên quan đến Dương Chí Dũng, “ông bầu” Nguyễn Đức Kiên

Tham gia chương trình "Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời" tối 21/10, thượng tướng Trần Đại Quang – Bộ trưởng Công an dành nhiều thời gian thông tin về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm kinh tế, tham nhũng trong thời gian gần đây.

Bộ trưởng cho biết, từ đầu năm 2012 đến nay, lực lượng công an đã phát hiện 891 vụ vi phạm pháp luật về tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 583 vụ so với năm 2011) với 1936 đối tượng được xác định (tăng gấp đôi so với năm 2011). Ngành đã khởi tố điều tra 328 vụ (tăng 24,7 %) và 693 đối tượng (tăng 26%). Số lượng các vụ án về tham nhũng, tội phạm về kinh tế , tội phạm về chức vụ đã phát hiện khởi tố, điều tra tăng cao hơn nhiều năm 2011.

Ông Quang cho biết, Bộ Công an đang tiếp tục điều tra một số các vụ tham nhũng xảy ra tại tập đoàn Vinashin như vụ cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng tại công ty cổ phần Container quốc tế của Tập đoàn Vinashin tỉnh Hải Dương. Ngành cũng đã tập trung điều tra vụ cố ý làm trái tại tập đoàn Vinalines.

Nhắc lại vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn sau khi sai phạm tại Vinalines bị phát giác, Bộ trưởng Công an khẳng định, với quyết tâm cao, bằng các biện pháp nghiệp vụ tổng hợp, ngành đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng và đã truy bắt được bị can. Hiện nay Bộ đang tập trung điều tra, sớm kết thúc điều tra vụ án để đưa ra xét xử trước pháp luật.

Việc bắt giữ, điều tra với Dương Chí Dũng, "ông bầu" Nguyễn Đức Kiên thời gian qua, ông Quang xác định là một trong những vụ án điểm có liên quan đến lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng, dư luận đang hết sức quan tâm. Hiện các vụ án này đã được khởi tố điều tra và cơ quan điều tra tập trung thu thập, xác minh, củng cố chứng cứ và điều tra mở rộng để giải quyết triệt để tất cả các đối tượng tội phạm có liên quan.

"Chúng tôi cũng đang quyết tâm cao, tích cực điều tra để sớm kết thúc, đưa ra xét xử các đối tượng này trước pháp luật. Kết quả điều tra khi kết thúc, chúng tôi sẽ kịp thời thông báo đến với người dân và dư luận" – tướng Quang hứa.

Ngoài ra, một số vụ tham ô, tham nhũng xảy ra tại Công ty Xây lắp Dầu khí, Công ty dệt kim Đông Phương, chi nhánh 6 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại TP.HCM và các vụ tại một số địa phương khác cũng đang được tiến hành. Kết quả điều tra các vụ án điểm thời gian tới sẽ kịp thời thông báo đến với người dân và dư luận.

Chống "mãi lộ" – khó vì áp lực mua chuộc

Đối với nhóm tội phạm chống người thi hành công vụ, Bộ trưởng Công an cũng khái quát, đây cũng là loại tội phạm gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt là các vụ chống công an đang làm nhiệm vụ với tính chất rất nghiêm trọng. Trong năm 2012, ngành công an đã thống kê được 922 vụ (tăng 140 vụ so với năm ngoái, tương đương 20%). Đã có 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh và 244 cán bộ, chiến sĩ công an bị thương trong khi thi hành công vụ từ đầu năm đến nay.

"Có thể nói hiện đang là thời bình nhưng máu của cán bộ chiến sĩ công an vẫn bị đổ xuống. Đây cũng là sự mất mát hy sinh rất to lớn, cũng là sự đau đớn đối với chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã xác định, dù thế nào đi chăng nữa, đã là lực lượng công an, đã là chiến sĩ công an, phải chấp nhận mọi hy sinh, đau đớn vì cuộc sống bình yên, vì hạnh phúc của người dân" – ông Quang khẳng định.

Về tình trạng mãi lộ thời gian qua, Bộ trưởng Công an phát biểu: "Việc đấu tranh, ngăn chặn tình trạng mãi lộ, tình trạng vi phạm tiêu cực trong lực lượng cảnh sát giao thông cũng được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong đó có cơ quan báo chí. Rất nhiều người dân và phương tiện thông tin, báo chí đã cung cấp cho chúng tôi về những hiện tượng vi phạm của cảnh sát giao thông".

Ngành công an đã rất chú ý lắng nghe, tiếp thu, chỉ đạo, xác minh và xử lý một cách nghiêm minh những trường hợp vi phạm, đưa ra truy tố trước pháp luật, tước quân tịch, cách chức, buộc thôi việc. Ngoài ra, ngành còn xử lý trách nhiệm liên đới của lãnh đạo các đơn vị có liên quan như trưởng phòng CSGT, thậm chí cả giám đốc, phó giám đốc công an những tỉnh thành để xảy ra các vụ việc vi phạm nghiêm trọng.

Giải pháp tới đây, ngành công an không chỉ là xử lý các cán bộ vi phạm mà phải quan tâm đến chế độ chính sách cho anh em. "Cảnh sát giao thông phải chịu rất nhiều áp lực như áp lực công việc, xã hội, áp lực trước sự tấn công mua chuộc của người phạm tội, vi phạm, áp lực trong môi trường họat động hết sức khó khăn. Vì thế, chúng tôi đang và sẽ tiếp tục nghiên cứu để có chính sách thỏa đáng đối với những đồng chí tuần tra cảnh sát giao thông, tăng cường công tác giáo dục để khơi dậy niềm tự hào của người chiến sĩ cảnh sát giao thông, tăng cường công tác quản lý, phát hiện và xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm về quy trình, quy chế công tác bởi vì vi phạm quy chế, quy trình công tác cũng dễ nảy sinh tiêu cực. Tới đây, ngành sẽ thành lập những đội thanh tra đặc biệt trực thuộc Bộ trưởng để đi kiểm tra, thanh tra và phát hiện xử lý kịp thời nghiêm khắc các hành vi vi phạm" – Thượng tướng Trần Đại Quang nói.

Kinh tế khó khăn làm nảy sinh thêm tội phạm vị thành niên

Với "điểm nóng" về tội phạm vị thành niên, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang quả quyết, thời gian vừa qua, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đã đạt được những kết quả nhất định. Kết quả, đã kiềm chế được mức gia tăng của tội phạm. Tuy nhiên, tính chất tội phạm và diễn biến tội phạm còn hết sức phức tạm. Nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, trong đó, đáng chú ý là tội phạm vị thành niên.

Ông Quang dẫn số liệu thống kê, năm 2012, trong số 122.277 bị can bị khởi tố có tới 9904 bị can dưới 18 tuổi (chiếm 8,1%, tăng 7,4% so với năm 2011).

Ông Quang cũng xác nhận, có nhiều vụ án do người vị thành niên thực hiện táo tợn, gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm hoang mang, lo lắng trong dư luận. Đây cũng là áp lực lớn với ngành công an, làm sao để kiềm chế được mức gia tăng của tội phạm, ngăn ngừa tội phạm nảy sinh, đặc biệt tội phạm vị thành niên.

Đánh giá nguyên nhân dẫn tới tình trạng phạm tội ở người vị thành niên tăng cao, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang đề cập trước hết đến vấn đề giáo dục gia đình có chiều hướng lỏng lẻo và không được quan tâm đúng mức. Theo ông Quang, không có cái gốc "giáo dục gia đình", con người rất dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội.

Ông Quang phân tích: "Chính vì thiếu giáo dục cho nên một bộ phạm không nhỏ thanh niên, thiếu niên quá đề cao giá trị vật chất, có lối sống hưởng thụ, coi thường kỷ cương pháp luật, lệch lạc về đạo đức, lối sống. Có nhiều em nghiện game, thiếu tôn trọng người lớn, thường xuyên nói tục, chửi thề, rồi bỏ học, đánh hội đồng. Có thể nói hiện tượng này diễn ra khá phổ biến".

Đi tìm nguyên nhân từ xã hội, Bộ trưởng Công an cho rằng, tình trạng kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải phá sản, người dân thiếu việc làm cũng làm nảy sinh tội phạm.

Và hơn hết là vấn đề đạo đức xã hội xuống cấp như yếu tố tác động từ bên ngoài cộng với việc thiếu rèn luyện tu dưỡng của mỗi người. Hiện tượng ứng xử bạo lực có xu hướng gia tăng. Nhiều vụ việc người dân vì thiếu hiểu biết pháp luật cũng dễ bị lôi kéo vào việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

Nhấn mạnh đó là điều đó rất đáng tiếc, Bộ trưởng Công an cho biết, ngành đã cố gắng phối hợp với các ngành, các đoàn thể, nhà trường và xã hội để tăng cường các biện pháp giáo dục, phòng ngừa nhưng ngăn chặn những vụ việc đáng tiếc này "quả thật là rất khó khăn".

P.Thảo

Nóng - Vụ Đoàn Văn Vươn: Bắt nguyên Phó Chủ tịch huyện Tiên Lãng

Tin từ Công an TP Hải Phòng cho hay, ngày hôm nay (22/10), Văn phòng Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TP Hải Phòng đã mời ông Nguyễn Văn Khanh, nguyên Phó Chủ tịch huyện Tiên Lãng đến trụsở CA thị trấn Tiên Lãng để tống đạt quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam.

Ông Nguyễn Văn Khanh bị tạm giam 4 tháng về tội "hủy hoại tài sản".

Trước đó, ngày 5/1/2012, UBND huyện Tiên Lãng thực hiện việc cưỡng chế tài sản tại khu vực đầm nuồi trồng thủy sản của ông Đoàn Văn Vươn, ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng do đã hết thời hạn cho thuê.

Tuy nhiên, ông Đoàn Văn Vươn đã có hành vi chống người thi hành công vụ làm 6 chiến sĩ công an và quân đội bịthương.

Ngày 6/1, ngôi nhà của ông Đoàn Văn Quý (em trai ông Đoàn Văn Vươn) không nằm trong khu vực cưỡng chế nhưng đã bị phá bỏ.

Đến ngày ngày 8/2, Công an TP Hải Phòng đã ra quyết định khởi tố vụ án "Hủy hoại tài sản" để điều tra vụ phá nhà ông Đoàn Văn Quý.

Liên quan đến vụ việc này, ngày 7/2, Thành ủy Hải Phòng quyết định đình chỉ công tác đối với ông Nguyễn Văn Khanh.

Hết thời gian bị đình chỉ, ông Khanh được bố trí làm chuyên viên văn phòng UBND huyện Tiên Lãng cho đến thờiđiểm bị bắt tạm giam.

Ngay sau khi tống đạt quyết định khởi tố và bắt giam đối với ông Khanh, cơ quan công an đã tiến hành khám xét nơiở của ông Khanh tại thị trấn Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng.
Q.Minh

Cập nhật tin tức về blogger Điếu Cày và Tạ Phong Tần




CTV Dân Làm Báo - Ngày 16 tháng 10, 2012 thân nhân anh Điếu Cày đến số 4 Phan Đăng Lưu gửi đồ tiếp tế cho anh cũng như yêu cầu trả lời về đơn xin thăm gặp đã gửi từ rất lâu trước đó (mà theo cả Ls Hà Huy Sơn và VKS TP khẳng định là trách nhiệm của cơ quan tạm giam giải quyết). Nhưng việc gửi đồ tiếp tế đã bị từ chối. Người trực nhận đồ ở đó đi vào gọi điện thoại và sau đó quay lại thông báo với thân nhân là anh Điếu Cày đã chuyển trại sang Chí Hòa.

Thân nhân của anh Điếu Cày rất là phẫn uất vì đáng lẽ công an phải có trách nhiệm thông báo cho gia đình sớm thay vì mãi đến hôm thăm nuôi mới miễn cưởng thông báo (họ chuyển anh Điếu Cày từ ngày 5 tháng 10).

Tương tự với những yêu cầu thăm gặp mà thân nhân đã gửi đến cơ quan giam giữ từ lâu, bây giờ số 4 Phan Đăng Lưu tuyệt nhiên hết trách nhiệm trả lời với lý do là anh Điếu Cày đã chuyển trại giam. Thấy đòi nói chuyện đúng sai với những người đó là vô ích nên thân nhân anh Điếu Cày chỉ đề nghị họ đưa giấy chuyển trại cho rõ ràng (vì trước đây gia đình đã kinh nghiệm việc chuyển trại không có giấy mà chỉ hỏi miệng thì chắc chắn Chí Hòa không trả lời dù cho họ biết rõ rành rành người tù là ai). Để đáp ứng yêu cầu đưa giấy chuyển trại, người cán bộ phụ trách đã đi ra ngoài gọi điện và bắt thân nhân anh Điếu Cày đợi gần một tiếng sau mới có một cán bộ khác ra đưa giấy.

Cùng với anh Điếu Cày, chị Tạ Phong Tần cũng đã bị chuyển sang Chí Hòa. Ngày 16, em gái chị Tần cũng đi cùng với gia đình anh Điếu Cày để "buôn nước bọt" ở cả hai trại giam. Riêng AnhbaSG vẫn được giữ lại số 4 Phan Đăng Lưu và được gia đình gửi đồ tiếp tế bình thường.

- Ngày 17 tháng 10
, sau khi phải làm những thủ tục xác nhận ở CA Phường, thân nhân anh Điếu Cày quay lại trại giam Chí Hòa lần thứ hai. Lần này đã gửi được một cách hạn chế 2-3 món ăn cho anh Điếu Cày. Còn chuyện thăm gặp trung tá Cao Xuân Tình trả lời "vì có kháng cáo, chưa thành án nên phải đi xin giấy cho phép ở Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao để được gặp mặt".

Tuy nhiên, VKSNDTC ở tận số 44 - Lý Thường Kiệt - Hà Nội thì rõ ràng ông trung tá công an cai tù này đang muốn gây khó dễ cho thân nhân anh Điếu Cày trong việc này. Thân nhân không thể bay đi bay về Hà Nội để xin cái giấy mà không biết bao giờ mới được trả lời. Ngược lại, nếu theo đường bưu điện thì đơn từ cũng như gửi vào cõi tù mù. Nói cho thẳng ra là một sự ngăn chận thăm gặp một cách trắng trợn, trái ngược hẳn với những gì VKS đã trả lời với gia đình "trong giai đoạn tạm giam thì đơn vị tạm giam tạm giữ có trách nhiệm xét đơn xin thăm gặp mặt".

- Ngày 18 tháng 10
, chị Dương Thị Tân - vợ cũ của anh Điếu Cày được các luật sư của blogger Anhbasaigon hẹn gặp để nói chuyện và được biết là các luật sư vừa nhận được thông báo là có kháng cáo: ngày 26 tháng 9 chị Tạ Phong Tần có kháng cáo; ngày 28 tháng 9 anh Điếu Cày có kháng cáo; ngày 3 tháng 10 Anhbasaigon có kháng cáo.

- Ngày 19 tháng 10
, Ls Hà Huy Sơn thông báo là đã nhận được thông báo có kháng cáo của anh Điếu Cày.

Phiên tòa sơ thẩm đã kết, nhưng độ nóng của dư luận thực sự làm họ phải giở trò để tình hình lắng xuống. Hành động không cho thân nhân gặp mặt là nhằm mục đích không để anh Điếu Cày và chị Tạ Phong Tần nhắn nhủ và bình luận về phiên tòa sơ thẩm. Đây là ý đồ, là là một bước bưng bít quan trọng mà công an cai tù phải làm. Họ đã thực hiện bằng cách chuyển trại và yêu cầu phải có giấy cho phép của VNSNDTC ở HN để gặp thân nhân trong tù như ông Cao Xuân Tình ở trại Chí Hòa đã yêu cầu.

Họ có thể không bao giờ cho gặp mặt như lời của chị Tạ Phong Tần nhắn nhủ em gái.

Cùng là bị cáo trong cùng một vụ án, vì cả 3 có kháng cáo nên chưa thành án. Nói cách khác cả 3 người đều trong giai đoạn "tạm giam" và phải được đối xử như nhau về cả pháp lý và cả điều kiện giam giữ. Những điều nhà cầm quyền đang làm khẳng định họ không cần dựa trên pháp luật, và những thứ bất công vẫn tồn tại và đày đọa người yêu nước ở trong tù.

Hiện tại, gia đình tuyệt nhiên không hề nhận được bất cứ giấy tờ, thông báo của VKS hay của tòa nào. Họ đang trơ trẻn xem gia đình của anh Điếu Cày là người ngoài cuộc.

19/10/12

Chống luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Người Buôn Gió - Mấy năm gần lại đây, lợi dụng vấn đề biển Đông đang có tranh chấp giữa hai nước Trung - Việt. Một số thế lực thù địch đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc về quan hệ 4 tốt, 16 chữ vàng mà Đảng ta đã dày công vun đắp với nhà nước Trung Hoa anh em. Phải nói rằng thành tựu ngoại giao nổi bật và thành công nhất trong thời kỳ đổi mới mà Đảng ta đạt được là thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà nước Trung Hoa, phân định đường biên giới giữa hai nước, phân định lại vịnh Bắc Bộ. Ký kết nhiều hợp đồng kinh tế đầu tư lớn như Bô Xít Tây Nguyên và trao đổi văn hóa, trao đổi kinh nghiệm lãnh đạo...

Bất chấp những thành công đạt được trong mối quan hệ chiến lược với Trung Hoa là vô cùng to lớn. Các thế lực thù địch ngày đêm vẫn chống phá mối quan hệ này bằng những luận điệu thâm độc, chúng muốn chia rẽ khối đại đoàn kết anh em giữa hai nhà nước cùng thể chế chính trị, cùng CNXH, hai nhà nước anh em được chủ tịch Mao vĩ đại và chủ tịch Hồ cũng vĩ đại đã dày công xây đắp.

Một trong những luận điệu xuyên tạc đó là, chúng nói rằng nhà nước Việt Nam bị chi phối bởi nhà nước Trung Hoa. Rằng mọi đường lối, chính sách, cơ cấu, tổ chức nhân sự của Việt Nam đều phải rập khuân y chang nhà nước Trung Hoa.

Nhưng bằng chứng thực tế diễn ra đã cho thấy nhiều ví dụ chứng minh rằng không phải Trung Hoa diễn ra thế nào là Việt Nam phải diễn ra như vậy. Vì là chung định hướng CNXH nên hai nước có nhiều điểm tương đồng. Nhưng tính chất của mỗi nước khác nhau, Việt Nam có những xử sự không giống Trung Quốc trong nhiều vấn đề xảy ra ở nước mình, cho dù tính chất của sự việc xảy ra về nội dung, tính chất, nguyên nhân là y hệt nhau.

Ví dụ 1
A - Người Trung Quốc biểu tình chống cái mà họ cho là Nhật chiếm đóng chủ quyền quần đảo của Trung Quốc. Khi biểu tình, những người Trung Quốc la hét, chửi bới, đập phá tài sản của người Nhật, đánh trọng thương người dùng hàng Nhật. Báo chí Việt Nam đưa tin rầm rộ về chuyện này một cách thoải mái, không bị ngăn cấm. Chưa thấy nhà nước Trung Hoa có biện pháp gì về việc này, hình ảnh trên báo Trung Hoa thấy những người biểu tình này như những người dân yêu nước nồng nàn.

B - Người Việt Nam bị cấm biểu tình phản đối nhà nước Trung Hoa chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa của Việt Nam, bị bắt vì tội cho là gây rối trật tự công cộng (mặc dù người Việt Nam biểu tình không đập phá, đánh đập, mạt sát cá nhân cũng như tổ chức nào). Người biểu tình Việt Nam bị tổ dân phố cưỡng chế giáo dục, bị giám sát, tra hỏi từ nơi ở đến chỗ làm việc... Báo chí Việt Nam gọi những người Việt Nam biểu tình là gây rối, phản động...

Ví Dụ 2
A - Những tác phẩm về chiến tranh biên giới Việt-Trung thời kỳ năm 79 tại Trung Hoa được xuất bản. Ca ngợi người lính Trung Hoa là anh hùng, chính nghĩa trong cuộc chiến mà họ gọi là bảo vệ biên giới Phía Nam. Trong muôn vàn cuốn sách ca ngợi cuộc chiến năm 79 của Trung Hoa, có cuốn sách còn được dịch ra tiếng Việt và được nhà xuất bản lớn nhất Việt Nam cho xuất bản.

B - Tác phẩm về chiến năm 79 của Việt Nam như Rồng Đá không được xuất bản, báo chí, sách báo, truyền hình Việt Nam không còn đề cập đến vấn đề này. Thậm chí có những nơi bia ghi tội ác của quân Trung Quốc xâm lược bị đục bỏ. Những ngôi mộ của liệt sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến này đều chỉ được ghi chung chung là hy sinh bảo vệ tổ quốc... Truyền thông Việt Nam không hề nhắc tới ngày mà Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam, tàn sát đồng bào Việt Nam và bao nhiêu nghìn chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh chống lại sự xâm lược ấy.

Ví dụ 3
A- Những ngư dân Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam được nhà nước Trung Quốc khuyến khích động viên. Hàng chục nghìn tàu đánh cá Quảng Đông trước khi tiến vào biển Đông khai thác đánh cá được tổ chức tiễn đưa như lễ hội, quan chức cao cấp đến dự. Cá biệt có vài tàu bị hải quân Việt Nam bắt giữ chỉ bị cảnh cáo cho về. Thậm chí có ngư dân Trung Quốc ở nuôi hải sản tại khu vực quân sự Việt Nam hàng năm trời không bị sao.

B- Ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt sẽ bị tịch thu tài sản, bắt gọi điện về nhà bảo người thân mang tiền nộp phạt, số tiền phạt nên đến hàng trăm triệu đồng Việt Nam. Thậm chí ngư dân Việt Nam còn bị đánh đập, sỉ nhục. Bị tàu thép đâm vào tàu đánh cá chìm nghỉm giữa biển khơi mênh mông, tính mạng bị đe dọa.

Ví dụ 4
A- báo chí Trung Quốc nhiều lần lớn tiếng đòi quân đội Trung Quốc phải dùng vũ lực để đánh Việt Nam vì cả gan tranh chấp biển Đông với Trung Quốc, họ mạt sát Việt Nam là đồ vô ơn, tham lam, xâm lược.

B- báo chí Việt Nam luôn đề cao tình hữu nghị, nhắc nhớ luôn công ơn giúp đỡ của CHND Trung Hoa đã giúp đỡ trong cuộc kháng chiến chống đế quốc, thực dân của nhân dân Việt Nam. Luôn dĩ hòa, vi quý với lời lẽ mềm mỏng cầu mong xử lý vấn đề biển đảo trong đối thoại hòa bình.

... và còn nhiều ví dụ trái ngược khác trong ứng xử của nhà nước Việt Nam và nhà nước Trung Quốc trong một vấn đề có cùng nội dung, tính chất điển hình là vụ Bạc Hy Lai gần đây xảy ra ở Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam chúng ta không bắt chước làm theo, mà xử lý theo tinh thần nhân ái, phê để giúp nhau tiến bộ. Chứ không phải phê để đấu đá, dìm nhau xuống.

Từ những ví dụ trên, đã chứng mình thấy rõ. Mặc dù ở cạnh một nước lớn, có cùng chung thể chế chính trị. Nhưng quyền độc lập, tự chủ của Việt Nam là rõ ràng không hề bị chi phối, rập khuân, phải làm bắt chước, sao chép từ Trung Quốc. Những thế lực thù địch dù có xuyên tạc thế nào, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Tinh thần độc lập, tự chủ của chính quyền Việt Nam là rõ ràng, không một quốc gia nào dù mạnh đến đâu có quyền can thiệp, áp đặt vào nội bộ nước ta.

Sớm muộn gì nhân dân ta cũng phát hiện ra bộ mặt dối trá, tuyền truyền láo của những thế lực thù địch âm mưu ngày đêm phá hoại đất nước ta. Bọn chúng sẽ phải trả giá vì động cơ này.

18/10/12

Trong quý 3, số lượt công dân đến Trụ sở tiếp dân của Trung ương trình bày và số vụ việc đều giảm nhưng số lượt đoàn đông người tăng so với cùng kỳ 2011.

Ngày 10/10, Thanh tra Chính phủ(TTCP) tổ chức họp báo về kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tốcáo và phòng chống tham nhũng quý 3.

Thông báo kết quả công tác quý III/2012, TTCP cho biết cơ quan này đã ban hành 2 kết luận thanh tra, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc chấp hành pháp luật trong công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và quản lý sử dụng đất tại Hà Nội; việc thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Phó Tổng TTCP Ngô Văn Khánh cho biết Thủ tướng đã có ý kiến chỉ đạo các bộ,ngành và thành phố Hà Nội phối hợp giải quyết để các chính sách đất đai đi vào cuộc sống.

TTCP cũng đã hoàn thiện 10 kết luận thanh tra, về thi hành án tư pháp của Bộ Tưpháp; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; thực hiện nhà công vụ đối với giáo viên và học sinh ở các tỉnh, thành….

Đối với việc thanh tra hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Phó Tổng TTCP Ngô Văn Khánh cho biết, hiện chưa thể hoàn thành ngay báo cáo. Nguyên nhân là do lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước rất rộng và chuyên sâu nên không thể làm nhanh được. Tuy nhiên, khi xong báo cáo và có ý kiến của Thủ tướng, TTCP sẽ thông báo rộng rãi.

Về công tác tiếp dân, xử lý khiếu nại tố cáo trong quý 3, số lượt công dân đến Trụ sở tiếp dân của Trung ương trình bày và số vụ việc đều giảm nhưng số lượtđoàn đông người tăng so với cùng kỳ 2011.

Đến nay, TTCP đã rà soát được 389/528 vụ việc khiếu nại tố cáo kéo dài, phức tạp, trong đó 280 vụ đã có phương án giải quyết thống nhất giữa bộ, ngành Trungương với các địa phương.

Minh bạch, công khai trong đấu thầu


Cũng tại buổi họp báo, TTCP đã thông báo kết luận thanh tra trách nhiệm quản lý của Bộ Kế hoạch - Đầu tư trong việc thực hiện luật Đấu thầu (giai đoạn từ1/1/2009- 1/7/2011).

TTCP kết luận Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã triển khai nghiên cứu, soạn thảo kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo luật Xây dựng. Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật cơ bản được hoàn thiện, thống nhất theo hướng tăng cường phân cấp. Việc công khai hóa thông tin về đấu thầuđược tăng cường, trang thông tin điện tử về hệ thống đấu thầu, hệ thống đấu thầu qua mạng được thí điểm thành công đã tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, tổ chức và tăng tính công khai, minh bạch, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.

Công tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu đã tăng cường ý thức thực thi pháp luật của các đối tượng được kiểm tra, góp phần ngăn ngừa các vi phạm.

Tuy nhiên, TTCP cũng chỉ ra một số hạn chế như chưa kiểm tra, giám sát toàn diện, đánh giá kịp thời việc ban hành các văn bản hướng dẫn về đấu thầu tại các bộ, ngành, địa phương, dẫn đến việc ban hành còn chậm, không đồng bộ với hệthống văn bản pháp quy về đấu thầu; còn để xảy ra tình trạng một số địa phương và Bộ Giao thông - Vận tải chỉ định thầu cùng lúc nhiều gói thầu có giá trị lớn cho một số nhà thầu; một số dự án đầu tư còn vượt khả năng thực tế, không có đủnguồn lực thực hiện nên kéo dài thời gian thi công…

TTCP cho rằng trách nhiệm để xảy ra những hạn chế trên thuộc về nhiều bộ, ngành,địa phương, trong đó trách nhiệm của Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư, Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu…

TTCP kiến nghị Thủ tướng giao Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư rà soát, chuyển sangđấu thầu rộng rãi đối với các dự án xin được chỉ định thầu nhưng chưa tiến hành thủ tục hoặc chưa thi công.

Sai phạm ở lựa chọn nhà thầu

TTCP cũng thông báo kết luận thanh tra việc quản lý đầu tư xây dựng đối với 14 dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn tài trợ nước ngoài ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2005-2011.

Đối với 10 dự án có tổng mức đầu tư trên 100 tỷ đồng, có đến 8 dự án không có báo cáo kết quả thẩm định. Các dự án này ít nhiều có sai phạm ở việc đấu thầu, lựa chọn nhà thầu.

Với 4 dự án mà TTCP trực tiếp làm việc, cơ quan thanh tra kiến nghị xử lý, giảm trừ trong quyết toán gần 30 tỷ đồng.

TTCP đề nghị xử lý hành chính các khuyết điểm, sai phạm tại các dự án trên; kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình chỉ đạo các đơn vị, tổ chức, cá nhân kiểm điểm làm rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý, khắc phục thiếu sót trong quản lý đầu tư xây dựng.

Vài dòng nghĩ vội khi nhận được tin Paulus Lê Sơn, thằng em trong tù

Hơn một năm, kể từ ngày 3/8/2011, Sơn gọi điện thoại cho tôi bị đứt quãng giữa chừng vì bị bắt và đưa đi biệt tích. Thế rồi sau đó biết em đi tù mà không có tin tức gì về em. Mẹ em chết, tôi vào viếng cũng không thấy em được về. Ông ngoại, cậu gì và mọi người đỏ mắt nức nở chờ em về nhìn mặt mẹ lần cuối cũng không được.

Thế rồi hôm nay chính thức nhận được tin thằng em qua một bài viết "tuyệt vời" – theo nghĩa đảo ngược vừa ngu vừa bịa đặt của báo Công an Hồ Chí Minh.

Paulus Lê Văn Sơn

Phải công nhận trình độ hài hước của tờ báo này có hạng, Xuân Hinh chưa là cái gì nhé. Coi chừng cả Vua hề Sác lơ cũng chuẩn bị về vườn với lũ này. Thậm chí về trình độ cùn thì Chí Phèo cùng phải gọi tờ báo này bằng cụ nội.

Bài báo trên tờ Công an Tp Hồ Chí Minh

Bài báo trên viết: "Lê Văn Sơn, quê Thanh Hóa là đối tượng có quan hệ mật thiết với nhóm đối tượng chống đối nhà nước như Lê Quốc Quân, Lê Thị Công Nhân và một số tu sĩ cực đoan. Vì thế, Sơn thường xuyên thu thập tin tức về khiếu kiện, việc đấu tranh của cơ quan công an với các đối tượng chống đối, các vấn đề bức xúc, nhạy cảm để phục vụ hoạt động tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam. Trở thành thành viên nhóm "doanh nhân trí thức cộng hòa" do Quân phụ trách, Sơn đã tham gia 2 lớp huấn luyện về kỹ năng truyền thông công giáo. Từ ngày 12 đến 13-7-2011, Sơn sang Thái Lan tham gia khóa huấn luyện "Quang Trung 711". Khi bị bắt, Sơn tỏ ra ngoan cố, liên tục quanh co, chối tội."

Đọc đến đây, thấy cách kết tội của tờ báo này thật nực cười. Đọc đi đọc lại mãi tôi vẫn không rõ Lê Văn Sơn có tội gì trong Nhà nước Pháp quyền XHCN có nền dân chủ "gấp vạn lần dân chủ tư sản" này.

Thử phân tích vài dòng đúng theo quan điểm pháp luật của nhà nước CHXHCN Việt Nam hẳn hoi xem nhé: "Lê Văn Sơn thu thập các tin tức về khiếu kiện, việc đấu tranh của cơ quan công an với các đối tượng chống đối, các vấn đề bức xúc, nhạy cảm để phục vụ hoạt động tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam".


Mẹ Paulus Lê Sơn chết sau khi mòn mỏi trông chờ đứa con duy nhất trong tù

Đọc đến đây, không thể không đặt ra một loạt câu hỏi: Kể cả là trường hợp Lê Văn Sơn có thu thập thông tin như tờ báo kia nói lên đi chăng nữa, thì Sơn có tội gì?Trong hệ thống văn bản pháp luật hiện nay, đã có văn bản nào của nhà nước cấm thu thập các thông tin loại nào và loại nào được thu thập chưa? Thế nào là nhạy cảm? Văn bản nào quy định cái gì là nhạy cảm? Những cô người mẫu, hoa hậu bán dâm, hàng mấy trăm tờ báo đưa tin những vụ việc về sex, về giới tính, về các hoạt động tình ái từ tuổi học trò đến cụ già hiếp dâm cháu nhỏ, từ thầy giáo mua dâm đến Chủ tịch Tỉnh, bí thư đảng mua dâm có gọi là "nhạy cảm" không? Những hình ảnh hở hang đùi vú, cảnh hôn hít, giường chiếu và tội phạm nhan nhản trên mặt báo nhà nước có phải là "nhạy cảm" không? Những cô gái mới nứt mắt đã làm chuyện người lớn quay rồi quay phim lại, bị tung lên mạng được Đài THVN đưa lên khóc lóc than thở "em không có tội" có là nhạy cảm?

Việc đấu tranh của các cơ quan công an với các đối tượng có phải là điều cấm thu thập thông tin hay không? Vì lý do gì? Có phải cấm thu thập thông tin chỉ vì có quá nhiều công dân tự nhiên đang khỏe mạnh yêu đời lại thích vào đồn công an để tự tử?.

Nếu không, thì Lê Văn Sơn không thể bị kết tội vì thu thập thông tin.

Tờ báo cho rằng việc thu thập thôngtin là "để phục vụ hoạt động tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam". Một tờ báo của ngành công an, mà đã nhầm lẫn giữa "tuyên truyền" với "phục vụ tuyên truyền" thì đây là sự nhầm lẫn hay cố ý? Vì đó là hai nội dung hoàn toàn khác nhau.

Những người đàn ông này rất có thể bị bắt vì rất dễ bị phát hiện có thu thập và mang theo "dụng cụ phục vụ mục đích hiếp dâm". Hình minh họa

Giả sử công an bắt được một người đàn ông nào đó, có cái "Tự do" (dương vật – hiểu theo nghĩa của Trung tá Vũ Văn Hiến, CAHCM) hẳn hoi, liệu có thể kết tội người đó là "đã thu thập, mang theo dụng cụ phục vụ mục đích hiếp dâm" hay không?

Việc thu thập thông tin là quyền của mỗi người, chỉ khốn nạn cho mấy anh nhà báo công an không chịu "thu thập thông tin" mà cứ ngồi nghe chỉ thị rồi bịa đặt viết bừa thôi. Còn thu thập thông tin không thể là có tội. Pháp luật đảm bảo cho công dân được quyền tự do thông tin.

Một điểm khác, bài báo viết rằng Lê Văn Sơn "có quan hệ mật thiết với nhóm đối tượng chống đối nhà nước như Lê Quốc Quân, Lê Thị Công Nhân và một số tu sĩ cực đoan".
Vậy thì: Giả sử có các tu sĩ cực đoan, giả sử Lê Quốc Quân có tội thì ở Việt Nam cứ có quan hệ mật thiết là có tội hay sao? Pháp luật có văn bản, điều luật nào cấm công dân có quan hệ mật thiết với nhau hay không? Tại sao pháp luật quy định tội ai làm người đó chịu?

Nếu cứ "có quan hệ mật thiết" với những người nhà nước không ưa thì bị bắt vào tù, vậy tôi báo với Báo công an Hồ Chí Minh rằng cần bắt ngay Nông Đức Mạnh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Anh, thậm chí truy tố luôn Võ Văn Kiệt… và một số nhân vật cộng sản đã "có quan hệ mật thiết" với Cù Huy Hà Vũ – một tù nhân đang thụ án tại Trại giam Số 5 – Thanh Hóa.

Một cảnh Paulus Lê Sơn bị bắt vô lý

Đấy là chưa kể tờ báo này công khai kết tội, vu cáo người khác là "đối tượng chống đối nhà nước" hoặc "tu sĩ cực đoan" hết sức vô căn cứ khi các công dân Lê Quốc Quân, Lê Thị Công Nhân vẫn tự do ở nhà mình, vẫn là công dân nước CHXNCNVN. Sao nhà nước này hiền lành đến thế nhỉ? Chống đối nhà nước mà vẫn cứ như không? Trong khi chẳng ai lạ gì cái gọi là pháp luật trong nhà nước cộng sản sẽ đối xử với những người được chụp cho cái mũ "chống đối nhà nước" như thế nào.

Còn tu sĩ cực đoan là những ông nào mà không bắt bỏ tù, các tu sĩ cực đoan này đã ném mìn, ném cứt vào nhà người khác cả đêm chưa? Đã bao vây tu viện nhà thờ đòi giết người hoặc xông vào nhà thờ phá phách chưa, đã cho côn đồ chém thằng nào chưa?

Nếu nói đến tu sĩ cực đoan, phải là các ông linh mục, tu sĩ, nhà sư đã từng theo chân cộng sản, biến nhà thờ thành chỗ chế bom xăng như linh mục Phan Khắc Từ hoặc ông nhà sư Thích Quảng Đức tẩm xăng tự thiêu mới là cực đoan chứ? Tiếc thay, những tu sĩ cực đoan này nhà nước ta lại tỏ ra rất ưu ái và rất trọng dụng, vì đã "đúng ý đảng, lòng nhà nước".

Tiếp theo, bài báo viết rằng Lê Văn Sơn đã "Trở thành thành viên nhóm "doanh nhân trí thức cộng hòa" do Quân phụ trách, Sơn đã tham gia 2 lớp huấn luyện về kỹ năng truyền thông công giáo".
Khốn nạn, đọc đến đây không thể kìm được lời chửi tục. Cái nhóm "doanh nhân trí thức cộng hòa" do Quân phụ trách là cái nhóm nào vậy ta? Tôi thì chỉ biết Lê Quốc Quân trước đây tham gia nhóm "Doanh nhân Trí thức Công giáo" mà thôi. Lưu ý báo Công an Hồ Chí Minh nhé: CÔNG GIÁO khác với CỘNG HÒA nhé. Bịa đặt, xuyên tạc hay cố tình giả vờ ngu? Hay đây là kết quả nhãn tiền việc không chịu "thu thập thông tin" của báo CAHCM?
Việc tham gia lớp kỹ năng truyền thông Công giáo ai coi là có tội? Căn cứ pháp luật nào để kết tội việc tham gia? Giả sử Sơn có tham gia chế bom, nổ mìn, bắn súng, bắt cóc giết người bất chấp luật pháp như các chiến sĩ biệt động thành ngày xưa thì sợ chứ tham gia lớp kỹ năng về Truyền thông công giáo thì có tội gì?

Hay chỉ vì Truyền thông công giáo không đúng định hướng là dạy người ta bịa đặt, bóp méo vu cáo, xuyên tạc như báo công an nên tham gia là có tội?

Trong tất cả thông tin, tôi đọc và yên tâm được một điều được viết trên tờ báo này: "Khi bị bắt, Sơn tỏ ra ngoan cố, liên tục quanh co, chối tội." Như vậy, đọc những lời này thì cần phải hiểu rằng thằng cu này thế mà được, kiên cường. Không có tội lấy gì mà nhận, mà chẳng được phong cho là "chối tội"?Thật không hổ danh khi nó vẫn khẳng định và tự hào rằng, nó là con cháu Thánh tử đạo Paulus Lê Bảo Tịnh.

Cái lối cứ nhét tội vào mồm người khác, gán ghép tội rồi kết tội một cách tự nhiên không cần tòa án, vẫn là cách làm xưa nay của báo chí cộng sản chỉ nhằm mục đích tuyên truyền bịp bợm.

Nhưng cách làm đó đã là quá khứ,đã quá lạc hậu với thời cuộc khi thông tin đa chiều ngày càng rộng mở.

Và cái rộng mở hơn là đầu óc người dân đã không còn u mê như những ngày xưa, khi mà cứ chụp lên bức màn sắt thì có thể hò hét "Trăng Trung Quốc tròn hơn Trăng nước Mỹ. Đồng hồ Liên xô tốt hơn Đồng hồ Thụy sĩ" là mọi người cứ thế tin theo.

Càng đọc những bài báo dạng này, càng thấy một điều là não trạng của những nhà báo cộng sản vẫn thế, vẫn nói lấy được, vẫn leo lẻo "nhà nước pháp quyền, pháp luật" nhưng nhổ xong lại liếm là điều bình thường. Tiếc cho họ rằng thời buổi đã khác.

Muộn mất rồi và lạc hậu mất rồi mấy ông làm báo Công an Hồ Chí Minh ơi.

Hà Nội, ngày 15/10/2012
J.B Nguyễn Hữu Vinh

Facebook Twitter Stumbleupon More