Lê Nguyên Hồng
-
Lời dẫn: Cần phải xác định rằng, ban đầu ĐCSVN do ông Trịnh Đình Cửu – một nhà cựu lãnh đạo của tổ chức Đông Dương Cộng Sản Đảng, làm lãnh đạo – là một tập hợp đại đa số những người yêu nước chân chính. Và thời kỳ trước ngày thành lập ĐCSVN (3/2/1930) các tổ chức đảng Cộng Sản như: Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn, An Nam Cộng Sản Đảng, và Đông Dương Cộng Sản Đảng, đều do người Việt chủ trương theo chủ nghĩa Cộng Sản thuần chất Việt Nam. Nhưng với sự xuất hiện của ông Hồ Chí Minh, hướng đi của ĐCSVN đã rẽ sang một con đường khác. Đó là lý do bao quát và khởi thủy, khiến người Việt Nam nhất định phải tiến hành thay đổi thể chế chính trị 1 đảng cầm quyền ở Việt Nam.
Lý do thứ nhất: ĐCSVN thực chất chỉ là một chi bộ của Quốc Tế Cộng Sản 3 do Đảng Bôn xê vích Nga (Lê Nin đứng đầu) sáng lập.
Để xúc tiến việc mở rộng Đảng Bôn xê vích Nga khuynh loát ra toàn thế giới, năm 1919 Lê Nin đã đơn phương xúc tiến đảng này thành lập Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) 3 nhằm loại bỏ Phái Giữa và Phái Hữu trong QTCS 2. Vì vậy QTCS 3 không phải là sự kế tiếp của QTCS 2 và QTCS 1. Ông Hồ Chí Minh (năm 1924 tên là Nguyễn Ái Quốc) là uỷ viên Bộ phương Đông của QTCS 3, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam.
Như vậy với việc chủ trì thành lập ĐCSVN (thời kỳ sau gọi là Đảng Lao Động Việt Nam), ông Hồ Chí Minh đã biến 3 tổ chức Cộng Sản thuần Việt thành 1 tổ chức chính trị chi nhánh của Đảng Bôn xê vích. Chính vì lý do trên, cho nên người ta không ngạc nhiên gì khi ông Hồ Chí Minh nhắm mắt nhận chỉ thị từ Stalin, phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu tàn sát hàng chục ngàn người dân vô tội – đồng bào của ông ta – tại Việt Nam trong những năm 1950 của thế kỷ trước.
Thời kỳ sau năm 1945 bản thân Liên Xô lúc đó cũng còn đang rất bận bịu với việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Đồng thời lo việc mở mang địa giới hành chính của Liên Bang Xô Viết. Vì vậy họ chưa thể đi sâu đi sát trong việc chỉ đạo quân cờ Việt Nam. Nhưng ngày 30/1/1950 họ cũng đã chính thức dặt mối quan hệ ngoại giao với Hà Nội: Những người Nga mặc thường phục đầu tiên đã bước chân đến Việt Nam với vai trò ngoại giao, nhưng thực chất là chỉ đạo chiến lược biến Việt Nam thành “tiền đồn” tấn công thế giới Tư Bản, mà chiến trường Miền Nam Việt Nam là một sự thử nghiệm đầu tiên. Nhưng cũng không thể quên việc Stalin đã chỉ đạo ông Hồ Chí Minh thực hiện cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Ngày 31/10/1952 Hồ Chí Minh lúc đó đang có mặt tại Moscow, đã gửi liền 2 bức thư xin chỉ đạo của Stalin về chương trình Cải Cách Ruộng Đất. Chỉ riêng việc ông Hồ Chí Minh phải viết thư cho Stalin xin chỉ thị mà không được gặp trực tiếp theo nghi thức ngoại giao, đã cho thấy tư cách Việt Nam chỉ là loại chư hầu đối với Liên Xô.
Một chỉ dấu khác cho thấy Liên Xô không coi trọng Việt Nam đó là, tuy thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng mãi đến ngày 4/11/1954 họ mới cử đại sứ sang Hà Nội. Tổng bí thư Khrushev và Bouglanin đã sang thăm Ấn Độ, Myanmar, Apganixtan tháng 12/1955. Đồng thời vào tháng 8/1958 và tháng 10/1959 hai nhân vật kể trên đã hai lần thăm Trung Quốc, nhưng họ không thăm Việt Nam.
Đối với ĐCSVN do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, họ đã quên mất một điều quan trọng: Họ là người Việt Nam, họ cần độc lập trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính vì không có tư tưởng độc lập cho nên họ đã làm việc như những cái máy, chỉ biết tuân theo sự điều khiển của người thợ máy. Nếu đủ sáng suốt, chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời đó cần dựa vào người Pháp khi họ quay lại Việt Nam trong vai trò của một nước Đồng Minh. Và nếu làm tốt điều này thì Việt Nam đã hoàn toàn tránh được cuộc chiến với Pháp kéo dài từ 1946 đến năm 1954. Nhưng tất nhiên họ phải chấp nhận mất độc quyền về chính trị.
Đối với cuộc chiến tranh Nam – Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1975 nếu ĐCSVN biết dựa vào quốc tế và nghiêm chỉnh chấp hành những điều đã ký kết tại Hội nghị Geneve năm 1954 thì kịch bản chiến tranh đẫm máu “nồi da nấu thịt” đã không xảy ra. Và tất nhiên người dân Việt Nam không cần đổ máu vô ích vì lý tưởng của Chủ Nghĩa Cộng Sản. Bằng chứng là Đông Đức và Tây Đức cuối cùng họ vẫn có thống nhất trong hòa bình. Hoặc mặc dù ban đầu có chiến tranh, nhưng Nam Hàn và Bắc Triều Tiên đã biết dừng lại cùng xây dựng chính thể riêng, mà không cần bắt buộc phải cố sức tàn sát lẫn nhau như ở nước ta.
Việc ĐCSVN bị lệ thuộc ngoại bang từ tư tưởng chính trị đến phương châm hành động, đã đưa đất nước chìm đắm trong bom rơi đạn nổ suốt 30 năm ròng. Điều đó cho thấy mọi sự mất làm chủ sẽ chỉ dẫn đến sự mù quáng trong hành động. Một đảng cầm quyền mà chỉ chăm chăm vào những lý tưởng không tưởng mãi tận đâu đâu, chỉ chăm chăm chờ chỉ thị của nước lớn, thì quả nhiên họ chỉ xứng đáng ở vị trí của tuồng rối và bù nhìn.
Lý do thứ 2: ĐCSVN tiếm quyền lãnh đạo xã hội.
Tuy chưa có bất kỳ một văn bản pháp lý nào trước bản Hiến pháp năm 1992 xác định quyền lãnh đạo đất nước của ĐCSVN, nhưng trên thực tế mọi hoạt động điều hành quốc gia từ 1945 đến nay đều do một vài cá nhân trong Trung ương ĐCSVN thao túng và toàn quyền. Chúng ta phải thừa nhận, trong quá khứ họ đã có công nhất định trong việc lãnh đạo nhân dân bảo vệ tổ quốc, đồng thời ĐCSVN cũng có những cố gắng trong việc phát triển đất nước trong thời kỳ đầu cho đến khoảng cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 – thế kỷ XX.
Một số đảng viên ĐCSVN từng tham gia vụ xả súng “Ôn Như Hầu”
Sự kiện Việt Nam giành độc lập năm 1945 là cơ may khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và Pháp chưa kịp trở lại Việt Nam. Việc giành chính quyền tại Hà Nội cũng là do người dân tự giác tiến hành mà không cần tốn công sức và xương máu. Nhưng sau khi từ Việt Bắc về Hà Nội, ĐCSVN tuyên bố giành chính quyền và thành lập chính phủ liên hiệp. Sau khi ổn định đất nước, họ đã lần lượt loại bỏ các đảng phái chính trị và các thành phần ngoài ĐCSVN trong chính phủ liên hiệp để chiếm thế độc quyền.
Ngày 12/7/1946 lực lượng Việt Minh dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh và chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, Huỳnh Thúc Kháng, đã nổ súng bắn chết nhiều thành viên thuộc Chính phủ liên hiệp là người của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, bắt giữ trái phép nhiều người khác. Để giữ an toàn tính mạng, các lãnh tụ Đảng Việt Cách là Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch chính phủ) và các thành viên Việt Quốc – Việt Cách khác trong chính phủ như Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Bộ Ngoại Giao), Vũ Hồng Khanh (phó chủ tịch Ủy Ban Kháng Chiến) phải chạy trốn ra nước ngoài. Sự kiện trên được ĐCSVN gọi là “sự kiện Ôn Như Hầu”.
Ngày 3/11/1946 Hồ Chí Minh lập ra chính phủ mới, nhưng ngay trong chính phủ này (gồm 14 thành viên chủ chốt) cũng chỉ có 3 người là của Việt Minh (ĐCSVN). Còn lại 11 người khác đều là người thuộc Đảng Dân Chủ, Đảng Việt Quốc, Đảng Việt Cách và không đảng phái. Kéo dài đến tận năm 1955, lúc đó chính phủ đã mở rộng thêm nhiều bộ mới, và với thủ thuật của ông Hồ Chí Minh biến ĐCSVN thành 2 phe: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh và Đảng Lao Động Việt Nam, nhưng chính phủ nói trên vẫn chiếm đại đa số là người không đảng phái và thêm vào đó là người của các đảng phái mới xuất hiện như Đảng Xã Hội, Đảng Xã Hội Pháp, Đảng Dân Chủ Việt Nam, và các đảng có từ trước như Việt Nam Quốc Dân Đảng…
Trải qua một thời kỳ khá dài ĐCSVN không phải là lực lượng toàn quyền, nhưng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Xô, ông Hồ Chí Minh đã lần lượt loại bỏ tất cả những thành phần không đảng phái và các đảng phái khác trong chính phủ, để đưa ĐCSVN leo lên nắm độc quyền điều hành đất nước. Còn 2 đảng khác là Đảng Dân Chủ và Đảng Xã hội, ĐCSVN cho sống thoi thóp đến năm 1988 thì họ cũng bị bức tử nốt. Kể từ đây, nhất là sau khi Hiến pháp 1992 ra đời, ĐCSVN đã cưỡng chiếm thế độc tôn tuyệt đối về quyền lãnh đạo đất nước.
Lý do thứ 3: ĐCSVN lừa dối nhân dân.
Kể từ sau khi thành lập ĐCSVN năm 1930, vai trò tổng bí thư của đảng này chỉ là bù nhìn. Tất cả các chức danh tổng bí thư của Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trường Chinh vv.., đều dưới quyền chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Để nhấn mạnh quyền lực của cá nhân, tại Đại hội ĐCSVN lần 2 (1951) ông Hồ Chí Minh đã phát minh ra chức danh “chủ tịch đảng” cho mình, chức vụ này về mặt hình thức thấp hơn tổng bí thư. Nhưng lại có thực quyền cao hơn tổng bí thư. Điều trớ trêu này đã trực tiếp gây họa cho tổng bí thư Trường Trinh khi phải chịu trách nhiệm về vụ “Cải cách ruộng đất”, trong khi thực ra chủ trương và trực tiếp chỉ đạo thực hiện là Hồ Chí Minh.
Tháng 10/1956 Trường Chinh từ chức, Hồ Chí Minh đương nhiên điều hành ĐCSVN liên tục 13 năm, đến tận năm 1969 – năm ông ta qua đời. Đại hội ĐCSVN lần 3 năm 1960 (lúc đó vẫn còn gọi là Đảng Lao Động) cũng chỉ đề xuất ông Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng. Như vậy ĐCSVN đã tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân, biến mình thành một thứ áo khoác ngoài cho “ông vua” Hồ Chí Minh. Điều này càng được khẳng định thêm, khi chức danh Chủ tịch nước của ông Hồ Chí Minh được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp, trừ khi phạm tội phản bội tổ quốc (Điều 50 – Hiến pháp 1959). Nghĩa là Hồ Chí Minh có quyền làm bất cứ việc gì phạm pháp, kể cả giết người, đều không bị truy tố.
Trong mọi văn bản luật và dưới luật (kể từ Hiến pháp trở xuống) do ĐCSVN chỉ đạo soạn thảo, họ đều đưa vị trí quyền lực của nhân dân lên hàng đầu, như “nhà nước của dân, do dân và vì dân” hoặc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” hay “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Nhưng trên thực tế, đó chỉ là những chiếc bánh vẽ, không có thực chất.
Nếu nhà nước do dân thì tất nhiên các văn bản luật quan trọng từ Hiến pháp đến Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự vv.., và các vấn đề trọng yếu của đất nước phải được nhân dân quyết định bằng những cuộc trưng cầu dân ý. Trên thực tế, tuy hiến pháp qua các thời kỳ đều ghi nhận quyền phúc quyết của dân, nhưng việc thực hiện quyền này chưa một lần được tiến hành, nhất là không có lý do gì khách quan trong thời kỳ sau chiến tranh từ 1975 đến nay. Tương tự, nếu nhà nước của dân thì nhân dân có quyền phế truất nhà nước, khi nhà nước đó không hoàn thành nhiệm vụ. Nhà nước vì dân thì vấn đề quyền tự do, nhân quyền, và lợi ích của mọi công dân phải được đặt lên hàng đầu. Nhưng tất cả đều chỉ là trên giấy…
Hay như trong việc “dân kiểm tra”, tức là mọi người dân có quyền kiểm tra nhà nước. Nhưng cơ chế nào cho phép người dân tiến hành kiểm tra thì không có. Thậm chí khi một số người dân yêu cầu tự giác thành lập các tổ chức chống tham nhũng của dân thì cũng bị cấm đoán, thậm chí còn bị bắt giữ, câu lưu. Như vậy rõ ràng là “dân biết, dân làm, dân bàn (bàn gì thì cứ bàn, nghe hay không là quyền của nhà nước)” còn quyền “kiểm tra” nhà nước thì hoàn toàn người dân không có! Câu trả lời đơn giản là không có cơ chế để cho người dân thực hiện quyền hạn của mình…
Theo lập luận của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ thì ĐCSVN đã “sáng tác ra một công thức gồm ba vế hòng thay thế cơ chế Tam quyền phân lập, đó là: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Thực chất là “Đảng lãnh đạo, Đảng quản lý, Đảng làm chủ”. Vậy nói thể chế chính trị ở Việt Nam không phải là chế độ dân chủ mà là chế độ toàn trị bởi ĐCSVN là hoàn toàn có cơ sở. Đó là những điều dối trá kinh khủng nhất của ĐCSVN!
Lý do thứ 4: ĐCSVN dâng đất, dâng biển đảo cho ngoại bang.
Công hàm ngày 14/9/1958 do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng ký xác nhận vùng lãnh hải 12 hải lý cho Trung Quốc, đánh đấu “cột mốc” đầu tiên cho việc ĐCSVN công khai dâng biển đảo của cha ông ngàn đời để lại, cho Trung Quốc. Sự việc trên chỉ được chế độ chính trị do ĐCSVN lãnh đạo, thừa nhận công khai trong một vài năm gần đây. Sự thừa nhận đó có được là nhờ sức ép liên tục của công luận trong và ngoài nước ròng rã hàng chục năm trời lên thể chế chính trị cầm quyền.
Đối với việc ông Phạm Văn Đồng ký công hàm năm 1959; nhiều người cho rằng, đó là tình thế bắt buộc, và người chịu trách nhiệm chính phải là ông Hồ Chí Minh. Điều đó đúng! Bản thân ông Đồng vốn là một người có thực tài. Nếu xét trong hàng ngũ lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN từ trước đến nay thì ông Đồng chính là người uyên bác nhất. Trên thực tế Hoàng Sa đã bị Trung Quốc đem quân tiến chiếm từ năm 1956. Nhưng thay vì đưa quân ra chiếm lại Hoàng Sa, hay ít nhất cũng có trách nhiệm lên tiếng phản đối trước công luận quốc tế, thay mặt ĐCSVN ông Đồng đã ra văn bản cấp nhà nước công nhận tuyên bố chủ quyền 12 hải lý của chính phủ Trung Quốc. Hành động đó chỉ có duy nhất một cách lý giải thuyết phục, đó là hành động từ chối lãnh thổ quốc gia – hành động bán nước.
Không những thế, năm 1974 khi Trung Quốc mở cuộc tấn công quân sự quy mô lớn xâm lược Hoàng Sa (lúc đó thuộc Việt Nam Cộng Hòa quản lý), thì chế độ do ĐCSVN lãnh đạo đã không hề có bất cứ động thái nào lên tiếng về sự việc nghiêm trọng này. Riêng đối với Miền Nam Việt Nam, ông Hồ Chí Minh vẫn tuyên bố đó chính là “máu của máu Việt Nam và thịt của thịt Việt Nam”, nhưng khi máu thịt đó bị xâm phạm, họ lại cư xử như kẻ ngoài cuộc. Đó chính là bằng chứng rõ ràng nhất về sự nhẫn tâm bán nước…
Cho đến tận ngày hôm nay, chương trình đàm phán và tiến hành cắm mốc biên giới Việt Trung kết thúc tháng 12/2008 vẫn bị chế độ giấu nhẹm. Nhân dân Việt Nam không ai được biết cụ thể ra sao. Có chăng chỉ là những tuyên bố chung chung trước báo chí. Sự thật thì việc cắm mốc ranh giới của biên giới Việt – Trung đã làm Việt Nam mất gần như hoàn toàn các điểm cao chiến lược về quân sự cho Trung Quốc: Tại Lạng Sơn mất các dãy 820; 636 thuộc xã Quốc Khánh Huyện Tràng Định. Núi Đất Hà Giang thành Lão Sơn của Trung Quốc. Núi Bạc thuộc Huyện Yên Ninh thành dải Âm Sơn của Trung Quốc vv… Chưa kể đến việc mất phần lớn thắng cảnh Thác Bản Giốc, và đặc biệt là mất địa danh Ải Nam Quan – một chứng tích oai hùng trong lịch sử chống quân xâm lược Phương Bắc.
Vấn đề phân định biên giới lãnh thổ, và kể cả các tranh chấp, là điều vẫn thường xảy ra giữa các quốc gia có chung đường biên giới với nhau. Nhưng việc nhà nước Việt Nam do ĐCSVN nắm quyền cứ mặc nhiên âm thầm thỏa thuận việc phân định lãnh thổ với phía Trung Quốc, mà họ không chịu công khai bàn bạc với nhân dân, là điều khó hiểu. Nếu đã là công minh, bởi đất nước Việt Nam không phải là của riêng ĐCSVN; thì họ phải dựa vào dân để bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc. Vì trong dân còn có vô vàn những bộ óc thông thái có thể tham mưu cho nhà cầm quyền. Hơn thế, trong dân cũng còn lưu giữ nhiều bằng chứng về biên giới, lãnh thổ, chủ quyền từ ngàn xưa để lại. Nếu không có người tra cứu tìm hiểu thì những bằng chứng đó sẽ không được trưng ra đúng lúc đúng chỗ để chứng minh với phía Trung Quốc, nhằm giành lấy sự đúng đắn và công bằng.
Để chứng minh cho những quan điểm trên, chúng ta có thể liệt kê ra hàng chục những văn bản cổ, văn bia cổ, và nhiều những văn thư, công văn hoạt động hành chính cũng như quân sự gần đây liên tục được phát hiện trong dân về Hoàng Sa và Trường Sa. Tin chắc rằng, nếu như vấn đề phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc mà được công khai bằng bản đồ tọa độ, bằng các văn bản cấp nhà nước trên báo chí, rất có thể người dân trong nước(nhất là khu vực Phía Bắc) sẽ cung cấp cho nhà nước nhiều bằng chứng thuyết phục về lịch sử đường biên giới Việt -Trung.
Chương trình đàm phán về biên giới Việt – Trung kéo dài nhiều năm, chỉ riêng việc cắm mốc đường biên cũng đã kéo dài 7 năm (2001 – 2008), nhưng người dân Việt Nam chỉ được nghe nói là có việc đó, còn cụ thể ra sao thì không ai được biết. Người ta có quyền đặt câu hỏi: Nếu như không có vấn đề gì khuất tất trong việc nhựơng bộ hàng trăm km2 khu vực biên giới cho Trung Quốc (và không ai dám chắc là không có kẻ nào nhắm mắt nhượng bộ lãnh thổ để bỏ túi hàng trăm triệu USD), thì tại sao ĐCSVN lại hành xử một cách bất thường như vậy? Dù là một người dễ tính nhất, ai ai cũng phải đặt nghi vấn về những cuộc viếng thăm ngoại giao vừa công khai, vừa bí mật của các ông cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, trong những chuyến thăm “hữu nghị” với ĐCS Trung Quốc, trong lúc đang diễn ra những vòng đàm phán Việt – Trung về biên giới…
Hơn thế nữa, một thái độ đớn hèn đến khó hiểu của ĐCSVN trước những sự thật về việc Trung Quốc tấn công xâm lược các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sự việc các chiến sĩ hải quân Việt Nam bị Trung Quốc tàn sát, đã được ĐCSVN giấu nhẹm mấy chục năm qua. Chỉ đến ngày 25/11/2011 bằng
thì vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa mới được phơi bày một phần sự thật. Đây cũng là sự vi phạm chủ trương của chính ĐCSVN trong phạm vi “dân biết”, và điều này đã vi phạm “quyền được biết thông tin” được xác định trong Điều 69 -Hiến pháp năm 1992. Những việc làm đó của ĐCSVN là những điều mà lịch sử thực sự không thể nào chấp nhận!Người ta cứ nghĩ làm như Lê Chiêu Thống khi xưa mới là bán nước. Bán nước, theo nghĩa rộng cần phải hiểu đó là hành vi không tích cực bảo vệ quyền lợi của tổ quốc, nhất là trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Người ta có thể bán nước cầu vinh, đánh đổi lấy tiền bạc, tài sản, gái đẹp, thậm chí là chỉ để chạy tội cho riêng mình. Bán nước, cũng có thể đó chỉ là hành động chấp nhận “xẻo thịt cơ thể cho thú dữ ăn dần” xuất phát từ việc cầu an do sợ chết. Những kẻ xấu có thể bán nước hoàn toàn hoặc từng phần tùy theo hoàn cảnh. Nhưng tội bán nước, dù ở cấp độ nào cũng xứng đáng bị nguyền rủa ngàn đời…
Lý do thứ 5: ĐCSVN xa rời quần chúng nhân dân.
Kể từ khi thành lập, và trong nhiều đề cương chính trị của ĐCSVN, họ luôn xác định “lấy dân làm gốc”. Đây là một chủ trương đúng đắn, vì thực chất đảng cũng chính từ dân mà ra. Nhưng trên thực tế nhân dân đã bị ĐCSVN sử dụng như một thứ công cụ vô tri trong tay mình. Khi khó khăn thiếu thốn vật chất thì họ huy động sức dân (điển hình là “tuần lễ quyên vàng” của dân năm 1945). Họ lấy tiền để đút lót cho quân Tàu Tưởng và nuôi bộ máy của chính phủ. Sự thật thì việc quyên vàng chỉ nhắm vào giới nhà giàu yêu nước, còn đại bộ phận nhân dân Việt Nam lúc đó rất nghèo, không lấy đâu ra của cải để mà quyên góp. Khi cần phát động chiến tranh thì họ hô hào “cứu nước” để đẩy người dân lành ra tiền tuyến…
Đồng bào yêu nước đi quyên vàng tại Hà Nội năm 1945
Về việc quyên vàng, xin dẫn chứng lời của Hồ Chí Minh như sau: “Tuần lễ Vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt Minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà, thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có, cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự Tổ quốc…”. Tuy nhờ có công của đồng bào có tiềm lực kinh tế giúp nước, nói thật đúng bản chất sự việc là cứu chính phủ của Hồ Chí Minh thoát chết trong tay Tàu Tưởng, nhưng sau này ĐCSVN dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã giương cao khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” để quay lại đàn áp những người đã có công cứu sống chính phủ lâm thời (trong đó có Hồ Chí Minh).
Riêng trong chính sách đãi ngộ người có công của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (sau này gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) đã cho thấy nhân dân chỉ là thứ công cụ của ĐCSVN: Những người lính may mắn còn sống sót trở về sau chiến tranh, không được hỗ trợ bằng những chính sách tiền lương trợ cấp xứng đáng. Đặc biệt là những bà mẹ liệt sĩ, vợ con liệt sĩ cũng chỉ được hưởng trợ cấp tượng trưng (không đủ sống vài ngày trong năm). Đối với những chiếc huân chương, huy chương, đó chỉ là thứ đồ chơi không hơn không kém, vì nó không có bất cứ một khoản vật chất đãi ngộ nào đi kèm. Mãi gần đây thì mỗi huân huy chương có được chi một khoản rất nhỏ, sau khi nhiều người có công với nước lên tiếng đòi hỏi. Riêng những người đã qua đời từ trước thì coi như cống hiến hy sinh cho đất nước không công…
Một chi tiết xa dân khác của ĐCSVN đó là, ngày nay các cán bộ công quyền đã là những quan lại thực sự, người dân khó mà tiếp cận để kêu oan, trình bày nguyện vọng, hay đơn giản là đóng góp ý kiến xây dựng. Đây là một hiện tượng tâm lý rất bình thường, vì bất cứ ai, khi đã trở nên giàu có quyền thế thì tự nhiên họ coi giá trị mình là cao hơn vị trí đối với người xung quanh. Mà cán bộ công quyền hiện nay đều giàu hoặc quá giàu, bởi vậy họ xa lánh nhân dân, xa lánh những người ở tầng lớp nghèo hơn họ là điều đương nhiên.
Cả một bộ máy công quyền cồng kềnh, rắc rối, thiếu khoa học thiếu hiệu quả, đã không thể nắm bắt được ý dân, không hiểu nguyện vọng của dân, và cái quan trọng nhất là không bảo vệ được nhân dân trước sự tấn công của cái ác. Ví dụ chỉ một vụ việc có thể nói là nhỏ về quy mô như vụ Tiên Lãng – Hải Phòng xảy ra ngày 5/1/2012, nhưng chính quyền từ cấp xã đến cấp thành phố đều không xử lý được, rốt cục chính phủ lên tiếng nhằm đáp ứng chiêu trò “an dân”. Nhưng nếu bình tĩnh mà suy xét thì trong mắt ĐCSVN, họ mới chính là lực lượng có những thuộc tính: “Đảng ta là đạo đức là văn minh”(xác quyết của chế độ trên các phương tiện truyền thông là như vậy). Vì vậy nhân dân chỉ là thứ cỏ rác – không có đạo đức, không có văn minh – sống ở tầng lớp thấp hèn nhất của xã hội mà thôi…
Một khi ĐCSVN – những người lãnh đạo – không hiểu ý dân, không hiểu lòng dân thì làm sao có thể đưa đất nước phát triển đi lên cho được? Ta thử đặt câu hỏi tại sao ĐCSVN lại xa dân? Rất đơn giản, vì họ biết người dân không có quyền chọn lựa tổ chức chính trị khác để lãnh đạo đất nước, bởi hiện tại chỉ duy nhất ĐCSVN là độc quyền tồn tại. Chẳng khác nào trên bến đò chỉ có duy nhất một con đò rách nát, ai muốn qua sông thì không có sự lựa chọn nào khác hơn việc nhắm mắt bước xuống con đò đó, phó thác cho sự may rủi của số phận. Như vậy hiện nay quan hệ xã hội đang quay trở về thời Phong kiến: “Dân cần quan, nhưng quan lại không cần dân”. Nếu cứ giữ nhịp “trở về” như vậy thì Việt Nam sẽ trở về thời Đồ đá cũng không chừng…
Lý do thứ 6: ĐCSVN không coi trọng nhân tài đất nước, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”.
Một trong những điều kiện để cho người tài phát triển năng lực tư duy, bộc lộ được những tài năng thiên phú và công rèn giũa tri thức của họ là yếu tố môi trường sống và làm việc. Một môi trường tốt, lành mạnh, sẽ tạo điều kiện cho nhân tài phát triển khả năng cá nhân. Nhưng nếu không có môi trường thì người tài không có đất dụng võ.
Theo ông Nguyễn Hữu Oanh – nguyên phó trưởng Ban tôn giáo của chính phủ – nhận định: “Thường người tài hay tự tin, có lòng tự trọng cao và có bản lĩnh. Hơn nữa, người tài thường hay thẳng thắn và cương trực, họ không muốn ồn ào, mặt khác họ hay có ý tưởng mới, nếu gặp người biết trọng dụng thì đó là thời cơ để người tài thể hiện mình”. Đây là những nhận định rất chính xác! Hàng chục năm qua do môi trường đào tạo trong nước quá lạc hậu và sau khi ra trường khó có cơ hội làm việc đúng nghề, đúng năng lực của mình, nên rất nhiều gia đình có điều kiện đã tìm cách cho con em mình đi du học, sau đó họ tìm đủ mọi cách để con em họ được ở lại nước ngoài.
Lấy ví dụ như trường hợp của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Nếu không nhờ các nhà khoa học Liên Xô phát hiện ra ông, thì ngày nay Việt Nam và thế giới đã không thể có giáo sư, nhà khoa học danh tiếng Nguyễn Văn Hiệu. Một số trường hợp khác, đó là những thí sinh đạt điểm tuyệt đối (42/42) trong những kỳ thi Toán Quốc tế là Lê Bá Khánh Trình (1979), Lê Tự Quốc Thắng (1982), Đàm Thanh Sơn (1984), Ngô Bảo Châu (1988), Đinh Tiến Cường (1989), Ngô Đắc Tuấn (1995), Đỗ Quốc Anh (1997), Lê Hùng Việt Bảo, Nguyễn Trọng Cảnh (2003), tất cả những người này đều chưa được đầu tư đúng từ chế độ do ĐCSVN lãnh đạo, cho họ phát triển. Trường hợp giáo sư Ngô Bảo Châu có may mắn hơn, đó là nhờ gia đình có điều kiện cho đi du học nên đã phát huy được tối đa khả năng của mình…
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cứ 1000 người Mỹ gốc Việt thì có 3,5 người là bác sĩ. Đã có 280 người Mỹ gốc Việt được cấp bằng phát minh khoa học của Hoa Kỳ. Đặc biệt là trường hợp tiến sĩ Đoàn Trung thuộc tập đoàn Micron ở Boise – Idaho có tới 72 bằng phát minh. Ngoài ra tại Hoa Kỳ, người ta cũng thấy xuất hiện nhiều nhà khoa học hàng đầu gốc Việt trong nhiều lĩnh vực quan trọng như Khoa học Vũ trụ (TS Eugene Trịnh, TS Nguyễn Mạnh Tiến), chế tạo vũ khí chiến tranh (TS Dương Nguyệt Ánh), công nghiệp Hàng không (TS Cai Văn Khiêm), và còn hàng trăm cái tên nổi tiếng khác…
Đặc biệt, có hai trường hợp là người Việt, nếu không may mắn (bị ở lại Việt Nam) thì họ mãi mãi chỉ là những con người tầm thường vô danh. Thứ nhất, đó là chính khách người Đức gốc Việt tên là Philipp Roesler – cậu bé mồ côi vô gia cư ở Việt Nam, hiện lại là đương kim phó thủ tướng Đức – nguyên là bác sĩ và tiến sĩ kinh tế. Người thứ hai – Võ Tá Đức – vốn là một cậu thiếu niên đạp xích lô kiếm cơm nuôi gia đình ở tỉnh Phú Yên, may mắn tìm được đường ra khỏi Việt Nam và sang Mỹ. Hiện nay anh đang là tiến sĩ bộ môn khoa học nguyên tử tại một viện nghiên cứu khoa học danh tiếng, thuộc loại lớn nhất thế giới và quốc gia Hoa Kỳ, đó là trung tâm Los Alamos.
Như vậy có thể thấy, cho dù trí thông minh của người Việt chắc chắn không hề thua kém bất cứ chủng người nào trên thế giới, tài nguyên thiên nhiên thật sự là “rừng vàng, biển bạc”, với quỹ dân số “tuổi vàng” từ 15 đến 59 chiếm gần 62,5%, nhưng sau khi kết thúc chiến tranh tương tàn tới 37 năm, đất nước Việt Nam vẫn lẹt đẹt trong nhóm những nước nghèo nhất thế giới. Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất gây nên sự trì trệ và đi xuống của xã hội, chính là hiện tượng nhân tài thui chột do không được chế độ đầu tư đúng. Tình trạng đó chỉ có thể giải thích là ĐCSVN – người đã và đang nắm quyền độc tôn lãnh đạo đất nước – đã không đủ tâm, không đủ tầm để chèo lái con tàu Việt Nam.
Lý do thứ 7: ĐCSVN không phải là nơi tập trung những đại diện ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Theo Điều lệ của ĐCSVN (tài liệu 19/1/2011) thì “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Ta hãy thử tìm hiểu điều này.
Chân dung chính khách “Gu gờ chấm Tiên Lãng”
Trong thời kỳ đầu giành lại đất nước, nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chấp nhận những người chưa phải là những đại diện ưu tú nhất trong nhân dân, làm những người lãnh đạo đất nước như ông Hồ Chí Minh (chỉ có bằng Tiểu học), ông đại tướng Võ Nguyên Giáp (chưa hề 1 ngày đi lính). Nhưng sau khi ổn định đất nước, đặc biệt là sau chiến tranh, bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển đúng với khả năng của mình, đều phải chấp nhận những cuộc thay đổi về nhân sự lãnh đạo đất nước. Đơn giản là lãnh đạo nhân dân trong chiến tranh hoàn toàn khác việc lãnh đạo họ trong thời bình. Vì thời chiến là phá, là giết được càng nhiều người của phe địch càng tốt, còn thời bình lại cần có những bộ óc lãnh đạo có tài làm kinh tế, xây dựng đất nước và hàn gắn vết thương chiến tranh…
Thế nhưng trong thời bình, ĐCSVN lại chấp nhận cho nhiều những cá nhân lên nắm quyền lãnh đạo, chỉ với tiêu chí là họ đã có thành tích trong chiến tranh. Đặc biệt sau này, có trường hợp ông Nông Đức Mạnh lên làm tổng bí thư ĐCSVN. Đây là một “cuộc cách mạng lùi” về nhân sự lãnh đạo đất nước. Một số nguồn tin cho rằng, có thể vì ông Mạnh là con trai của ông Hồ Chí Minh (đó có lẽ là cách giải thích thuyết phục nhất), vì một anh công nhân lâm nghiệp, chưa hề học qua đại học, nhưng lại được cử đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô, khi về nước cũng không có đề tài nghiên cứu nào, không có năng lực gì đặc biệt, lại leo lên chức vụ tổng bí thư ĐCSVN nhanh đến chóng mặt, là điều bất thường!
Tất cả “tài sản” tinh thần của ông Mạnh để lại cho người dân Việt Nam sau 2 nhiệm kỳ làm tổng bí thư (2001 – 2011), là đất nước đi xuống, nạn tham nhũng, ô dù móc ngoặc hoành hành, xã hội rối loạn, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông tăng vùn vụt. Không những thế, người con trai cả của ông Mạnh bằng cách nào đó lại dễ dàng được cất nhắc lên vị trí bí thư tỉnh ủy Bắc Giang, và là ủy viên Trung ương ĐCSVN. Cũng cần nhắc lại rằng, ông Tuấn có điểm giống cha mình, tức là học hành ban đầu không đâu đến đâu (phải đi lao động phổ thông theo diện xuất khẩu lao động sang CHDC Đức)…
Nếu làm một cuộc điều tra nghiêm chỉnh thì đại đa số các vị trí lãnh đạo trong ĐCSVN hiện nay đều có học vị tiến sĩ, phó tiến sĩ. Nhưng thực chất những tấm bằng đó có chất lượng đến đâu thì rất dễ kiểm tra. Ngay như đối với cương vị chủ tịch nước của ông Nguyễn Minh Triết (2006 – 2011), cũng cho thấy ông này thiếu kiến thức lãnh đạo và tỏ ra không có tầm trong những lời phát biểu trước toàn thế giới: “Có người ví von, Việt Nam Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”. Hay như những phát biểu phi văn học và phản nhân văn của ông Triết tại buổi lễ khánh thành tượng đài Thánh Gíong: “Công lao là như thế, tài năng là như thế, nhưng mà không màng chức vụ, danh lợi, không đòi hỏi ai cám ơn cả, không đòi hỏi phong chức phong tước gì cả, đánh giặc xong là thanh thản về trời để sống một cuộc đời vui thú điền viên, một cuộc đời thanh thản…”. Một người với cương vị chủ tịch nước mà phát ngôn như vậy thì quả là ĐCSVN khéo chọn “nhân tài” cho đảng của mình!
Ngày 17/2/2012; trước khoảng 500 cán bộ hưu trí trung, cao cấp tại CLB Bạch Đằng tại hội trường đường Lê Đại Hành, Hải Phòng, ông Nguyễn Văn Thành – bí thư thành ủy Hải Phòng, ủy viên trung ương ĐCSVN – đã đăng đàn phát biểu một diễn văn hết sức ngô nghê về ngôn từ và trái ngược hoàn toàn với chỉ đạo của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về vụ Tiên Lãng. Đặc biệt, tuy được cho là có trình độ tiến sĩ kinh tế và cử nhân Anh văn, nhưng ông Thành lại dùng câu “Gu gồ chấm Tiên Lãng” hết sức sai lạc đến độ khó tin, gây ra biết bao lời đàm tiếu bàn tán xôn xao trong dư luận xã hội. Điều này chỉ có thể lý giải là ông Thành không biết gì về mạng Internet.
Chỉ với một vài những dẫn chứng như trên, có thể thấy việc ĐCSVN cho rằng, họ là những đại diện tiên phong của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam, là những lời nói hoàn toàn không có cơ sở và không có bất kỳ một sự thuyết phục nào. Thực ra cán bộ cao cấp của ĐCSVN hầu như toàn là một lũ trọc phú dốt nát (hiểu đó là sự dốt nát do không đủ tầm chứ không phải là để so sánh với sự thiểu năng trí tuệ), họ đã thay nhau leo lên nắm quyền bằng cơ cấu phe nhóm ô dù và bằng những thủ đoạn bẩn thỉu, chứ không phải bằng những phẩm chất tốt đẹp và tài năng chân chính…
Lý do thứ 8: ĐCSVN thực ra là một tổ chức tham nhũng từ cấp trung ương đến địa phương.
Ai cũng biết tham nhũng có mặt ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới. Nhưng nó thực sự đã trở thành đại quốc nạn của Việt Nam nhiều năm qua. Chính bộ máy thông tin báo chí của chế độ cũng phải công khai thừa nhận điều này. Hàng ngày người ta vẫn nghe các cán bộ cao cấp của ĐCSVN kêu gọi chống tham nhũng, minh bạch tài sản cá nhân cán bộ. Nhưng trên thực tế họ không để ngỏ một kẽ hở nào để nhân dân có thể tham gia chống tham nhũng. Tại sao lại có chuyện phi lý đó? Bởi vì ĐCSVN chỉ hô hào suông nhằm lừa bịp đại chúng, chứ không có ý định chống tham nhũng thật. Vì tham nhũng chỉ rơi vào cán bộ công quyền. Mà cán bộ công quyền thì 100% là đảng viên ĐCSVN. Nếu chống tham nhũng nghiêm túc thì chẳng lẽ họ lại đi chống lại chính bản thân mình?
Ngày 1/12/2011 tổ chức Minh Bạch Quốc Tế vừa cho ra công bố Bảng xếp hạng về tham nhũng trên toàn thế giới. Trong đó họ công bố kết quả điều tra tại Việt Nam cho thấy, tại các thành phố có tới 40% người dân phải đút lót để có được dịch vụ cho mình hoặc người thân. Theo bảng tổng sắp của tổ chức này thì Việt Nam đang đứng thứ 112 trong số 183 nước trên thế giới. Nhưng trên thực tế tổ chức Minh Bạch Quốc Tế cũng chỉ căn cứ vào những “số liệu nổi” do chính chế độ chính trị do ĐCSVN lãnh đạo, cung cấp. Phần chìm của tảng băng nổi tham nhũng tại Việt Nam mới thể hiện đúng bản chất vấn đề.
Tại sao nạn tham nhũng lại tiếp tục hoành hành ở Việt Nam với quy mô và mức độ ngày một tinh vi và trầm trọng hơn? Nguyên nhân chính là sự bất cập của thể chế chính trị cầm quyền. Chính cơ chế và sự lỏng lẻo của hệ thống pháp luật tạo ra tham nhũng, cơ chế dọn đường cho tham nhũng. Những thiếu hụt, bất cập của cơ chế, của chính sách vĩ mô, đã tạo ra những “khoảng trời” để cho những hành vi thao túng kinh tế, thao túng chính trị thỏa sức tung hoành. Đơn cử ví như sự thiếu chặt chẽ trong tổ chức, quản lý, giám sát việc chấp hành luật thuế, hay các hoạt động cấp phép như cấp các giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc quy hoạch đất đai và việc cán bộ công quyền cố tình hiểu sai, làm sai luật đất đai, dẫn đến việc quy hoạch lại đất đai bị chồng chéo, các dự án ma, dự án treo không quan tâm gì đến quyền lợi của đại chúng nhân dân…
Tất cả các hành vi tham nhũng trục lợi từ đối tượng thứ 2 đều do cơ chế “xin cho” mà ra. Trong đó việc thu các khoản phí và lệ phí, nói chung là tham nhũng về kinh tế, hoặc tham nhũng về quyền lực (mua quan bán chức – mục đích cuối cùng cũng là kinh tế), tựu chung đều dẫn đến việc tiền bạc chảy vào túi một số cá nhân có quyền lực trong ĐCSVN từ cấp xã phường đến trung ương.
Hiện nay nạn “rút ruột thuế” đang có chiều hướng gia tăng, và rất khó kiểm soát. Ai cũng biết thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Nhưng nếu như doanh nghiệp chịu thuế (hoặc rộng hơn là người nộp thuế), câu kết với cơ quan thuế thì nhà nước khó có thể giám sát và kịp thời phát hiện. Theo cách “làm” này, thay vì người chịu thuế phải nộp cho nhà nước 100% số tiền thì họ chấp nhận chi cho các cá nhân có quyền trong ngành thuế khoảng 10 đến 20%, và nộp ngân sách một khoản chỉ khoảng 30% nữa. Như vậy nhà nước sẽ thất thu thuế khoảng 40 đến 50%.
Một dạng tham nhũng khác, đã nhắc sơ qua ở trên, đó là tham nhũng dựa vào việc mua quan bán chức. Những kẻ phải bỏ tiền ra mua chức sẽ coi đây là một vụ đầu tư. Họ sẽ phải làm trái, vơ vét thật nhiều hòng bù đắp vào những khoản tiền ban đầu họ đã bỏ ra để mua chức vụ. Căn bệnh này có tính dây chuyền từ thấp lên cao, và tác động cực mạnh đến đời sống toàn xã hội.
Hiện nay nạn tham nhũng có tổ chức, theo ê kíp đang thịnh hành nhất. Những người có quyền khuynh loát (cỡ như thủ tướng, bộ trưởng) đang công khai tạo thế lực vây cánh cho gia đình hệt như cung cách gia đình trị của thời phong kiến. Việc làm này đang đưa đất nước Việt Nam rơi vào tình trạng kinh tế nhà nước rơi vào tay các tập đoàn gia đình, đan xen vào đó là những “tập đoàn” gia đình trị về chính trị (ví dụ ông Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư thì cất nhắc con trai là Nông Quốc Tuấn lên bí thư tỉnh ủy. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì dựng con gái lên chi phối và điều hành các tập đoàn kinh tế, con trai lên làm thứ trưởng Bộ xây dựng, người khác thì nắm Đoàn thanh niên vv…).
Nếu như tiến hành một cuộc khảo sát toàn quốc, kể từ những đảng viên ĐCSVN làm đội trưởng, đến kế toán các đội sản xuất tại các nông lâm trường, và các trưởng thôn trưởng ấp (vùng đồng bằng) thì họ đã là những người “có máu mặt” về tài sản. Nếu là ở cấp phường xã thì chủ tịch xã hay trưởng phòng tài chính cấp phường xã thực sự đã là những người giàu nổi bật so với nhân dân lao động. Ở các cấp cao hơn như huyện, quận, sở, và các công ty nhà nước, thì các cán bộ lãnh đạo và quản lý tài chính, đều là các tỉ phú (có nhiều tỉ tiền Việt). Đối với cấp tỉnh và tương đương thì cứ theo cấp số mà nhân lên, cán bộ đầu tỉnh và các bộ ngành, tất cả đều là đại gia, triệu phú tiền Dollars Mỹ. Tiền đó ở đâu ra, nếu không là do tham nhũng?
Một bằng chứng hùng hồn về chuyện nhiều cán bộ ĐCSVN giàu có bất minh đến độ thừa tiền đầu tư mua hàng trăm biệt thự “triệu Đô” ở các trung tâm đô thị như Hà Nội, Sài Gòn, rồi bỏ hoang cho cỏ mọc. Theo thông tin từ đại diện bán hàng của một doanh nghiệp bất động sản lớn, sở hữu nhiều dự án đô thị hoành tráng tại phía Tây Hà Nội khẳng định: có đến 60-70% lượng biệt thự tại các khu đô thị mới thuộc sở hữu của quan chức nhiều cấp, ngành. Chỉ có từ 30-40% số biệt thự còn lại thuộc sở hữu của các tổng giám đốc hoặc các doanh nhân ở Hà Nội hay từ nhiều địa phương có tiền mua gom…
Hiện trạng trên sẽ đưa đất nước Việt Nam đến đâu? Đó là thảm trạng tham nhũng không thể kiểm soát, không thể thanh tra, kiểm tra, vì các đối tượng thanh kiểm tra đều cùng một tập đoàn gia đình. Đồng thời với “tiêu chí gia đình” thì nhân tài ngoài xã hội đương nhiên không được trọng dụng, đất nước cứ như vậy mà đi xuống, còn hầu bao không đáy của những kẻ tham nhũng thì ngày một phình to. Một ngày không xa, với nạn tham nhũng bòn rút của công, chiếm đoạt của dân, tràn lan vô tội vạ như hiện nay, đất nước Việt Nam sẽ khánh kiệt, vỡ nợ, và thế hệ con cháu chúng ta sẽ lãnh nhận hậu quả đau đớn đó chứ không phải ai khác!
Lý do thứ 9: ĐCSVN là nguyên nhân trực tiếp gây nên tình trạng mất tự do, dân chủ, nhân quyền.
Mặc dù chỉ là đi sao chép những ý chính trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và Pháp, nhưng bản Tuyên Ngôn độc lập của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2/9/1945 tại Ba Đình – Hà Nội, cũng đã thể hiện được những nội dung quan trọng về Độc Lập, Tự Do, Nhân Quyền, Bình Đẳng bác ái. Người dân Việt Nam khao khát tự do hạnh phúc chỉ mong chờ có vậy. Chính vì họ tin tưởng rằng: Mình sẽ có tự do, mình sẽ có quyền sống, quyền làm chủ bản thân cũng như làm chủ đất nước, cho nên dù phải hy sinh, họ cũng chẳng từ nan. Đây là động lực quan trọng nhất để người dân lăn xả trong những cuộc chiến mà ông Hồ Chí Minh lãnh đạo ĐCSVN chủ trương phát động.
Biểu tình bày tỏ lòng yêu nước cũng bị đàn áp thẳng tay
Sự thật bắt đầu bộc lộ ngay từ khi bản Hiến pháp 1959 ra đời với Điều 50 quy định “miễn tội cho chủ tịch nước, chỉ ngoại trừ tội phản bội tổ quốc”. Đây là một biểu hiện phân biệt rõ nhất về quyền bình đẳng giữa người với người. Còn vấn đề tự do, vì bị cuốn vào những cuộc tàn sát nội bộ và chiến tranh liên miên, người dân cứ tưởng tự do nghĩa là được cầm súng bắn vào kẻ địch. Sau này hết chiến tranh họ sẽ được hưởng chế độ “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”…
Kể từ sau khi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (1960), quyền tự do báo chí đã bị bóp nghẹt, đánh dấu bằng việc ĐCSVN chính thức ban hành “Sắc lệnh báo chí” và tuyên bố “báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng”. Đó chính là thời điểm bắt đầu của đêm trường cho báo chí và văn nghệ tự do. Hóa ra tự do của chế độ do ĐCSVN lãnh đạo chỉ là phải nghe lời Đảng, làm theo lời Đảng một cách máy móc, bất biết hậu quả ra sao, không cần biết việc đó có đúng pháp luật và đạo lý hay không!
Nói một cách công bằng, vấn đề Nhân quyền là một khái niệm khá mới mẻ (Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền chỉ ra đời năm 1948). Vì vậy chúng ta cũng không nên bắt bẻ chuyện ĐCSVN vi phạm nhân quyền trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng sau năm 1975 vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn là món hàng quá xa sỉ đối với đại chúng nhân dân. Người dân chỉ cần mở miệng nói một câu trái với chủ trương của ĐCSVN thì ngay lập tức bị bắt giữ và cầm tù như một tội phạm thực sự, thậm chí không cần xét xử.
Một đất nước mà tòa án xét xử cho có hình thức, công an, Viện kiểm sát cũng chỉ làm việc như những công cụ đàn áp dân chúng, thì không thể lấy đâu ra sự công bằng. Tất cả các văn bản luật từ Hiến pháp trở xuống đều đi sao chép, vay mượn từ những quốc gia khác trên thế giới như Mỹ, Pháp, Liên Xô vv.., chỉ để trang trí cho chế độ chứ không được áp dụng cách công bằng, vì vậy những văn bản đó hoàn toàn vô giá trị đối với những người khao khát tự do, nhọc công tìm kiếm những giá trị nhân quyền.
Theo báo cáo hàng năm của tổ chức Human Rights Watch thì, “Việt Nam tăng cường đàn áp những nhà bất đồng chính kiến trong nỗ lực củng cố quyền lực của Đảng Cộng Sản. Các nhà chức trách đã bắt giữ hàng trăm người ủng hộ dân chủ hòa bình, các nhà hoạt động tôn giáo độc lập, bảo vệ nhân quyền, và các nhà phê bình trực tuyến trên mạng Internet, họ sử dụng điều luật “Xâm phạm an ninh quốc gia” mơ hồ, diễn đạt tùy tiện, thiếu cơ sở về các tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 Bộ luật hình sự), hoặc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” (Điều 258 – Bộ luật hình sự).
Mặc dù Việt Nam đã ký kết hầu như tất cả các văn bản quan trọng với Liên Hiệp Quốc về việc tôn trọng quyền tự do, dân chủ, nhân quyền. Nhưng dưới áp lực bảo vệ bằng mọi giá quyền độc tôn lãnh đạo của Đảng, ĐCSVN đã không để cho người dân tự do hoạt động tôn giáo: Họ bắt buộc các hoạt động tôn giáo phải nằm dưới sự kiểm soát của chế độ.
Về quyền tự do lập hội, ĐCSVN yêu cầu các cơ quan chức năng của họ như công an, giám sát và theo dõi chặt chẽ “Chính phủ cấm các công đoàn độc lập và các tổ chức nhân quyền, cũng như các đảng đối lập chính trị. Công nhân đều bị cấm tiến hành các cuộc đình công không được uỷ quyền của liên đoàn lao động do Đảng kiểm soát. Các nhà hoạt động thúc đẩy quyền của người lao động và công đoàn độc lập bị sách nhiễu, bị bắt giữ, hoặc bị tù” (Human Rights Watch).
Đối với “Quyền biểu tình” của người dân, tuy được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 nhưng người dân không được hưởng quyền này. Đây là một hành động “đứng trên pháp luật” của ĐCSVN. Nếu một chế độ có dân chủ, thì quyền biểu tình thông qua những cuộc biểu tình, là cách nhanh nhất để chuyển tải ý nguyện của nhân dân đến kẻ cầm quyền. Nó còn là một vũ khí của đám đông nhằm ngăn chặn kịp thời những sai lầm của nhà nước đối với chính sách vi mô và vĩ mô của quốc gia. Tại Việt Nam, ngay cả khi người ta biểu tình thể hiện lòng yêu nước, như các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội năm 2011 cũng bị đàn áp không thương tiếc. Đó là những sự thật không thể chối cãi…
Một chế độ tự xưng là dân chủ, nhưng bất kể ai thu thập thông tin, chuyển tải thông tin, bằng bất kỳ hình thức nào: Truyền miệng, dùng phương tiện Internet, nhóm họp bàn luận vv.., đều bị phá rối và bắt giữ. Trong hàng chục năm qua chế độ do ĐCSVN lãnh đạo đã ra tay bắt bớ hàng trăm trường hợp, chỉ vì họ thực hiện quyền thu thập và chuyển tải thông tin. Mặc dù quyền này cũng đã được chế độ xác nhận với quốc tế bằng việc ký kết công nhận Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Bằng những hành động phi pháp của mình, ĐCSVN đã tạo nên một môi trường ngột ngạt về tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Đây chính là bằng chứng rõ nhất: Họ chính là nguyên nhân gây nên tình trạng mất tự do, dân chủ và nhân quyền. Những việc làm đó đã đi ngược lại xu hướng phát triển của nhân loại, phủ nhận các giá trị văn hóa của đất nước!
Lý do thứ 10: Thực trạng xã hội do ĐCSVN nắm quyền – rối loạn về nhiều mặt, xuống cấp về mọi mặt.
Có thể gói gọn sự xuống cấp và rối loạn trong xã hội Việt Nam hôm nay bằng hai từ: “Mất cắp”. Trong đó có thể liệt kê ra các nội dung mất cắp như: Mất cắp nguồn gốc, mất cắp danh dự, mất cắp nhân tính, mất cắp văn hóa vv…
Mất cắp nguồn gốc: Không phải ngẫu nhiên mà nhà sử học Dương Trung Quốc tuyên bố: “Thế hệ chúng ta sau này mất gốc hoàn toàn. Nếu có tiếp cận phương Tây thì chỉ là tiếp cận văn minh bề ngoài, phương tiện sống, kiến thức. Chẳng hạn chúng ta biết tiếng Anh, nhưng không hiểu nền văn minh của Anh là như thế nào”. Thật vậy, nếu làm một cuộc khảo sát nhỏ thì sẽ thấy đại đa số học sinh, sinh viên ngày nay không thuộc Lịch Sử nước nhà, không hiểu đâu là cội nguồn dân tộc, không biết gì về văn hiến ngàn năm
Mất cắp danh dự: Chúng ta đã mất hết danh dự, khi nhượng bộ cho Trung Quốc nhiều vị trí chiến lược quan trọng trên đường biên giới đất liền, mất Hoàng Sa và một phần Trường Sa. Ngư dân Việt Nam bị bắt cóc đòi tiền chuộc ngay trên vùng biển của quê hương mình. Nhiều trường hợp người Việt gây án, quậy phá ở nước ngoài, cướp bóc, buôn bán ma túy, trồng Cần Sa vv… Hiện nay có hàng chục ngàn (con số thực có thể lên đến hàng trăm ngàn) cô dâu Việt lấy chồng Đài, chồng Hàn, chồng Trung, mà để trở thành nàng dâu xứ lạ, mỗi người đã phải trải qua những cuộc “coi mắt” hoàn toàn lõa lồ cho những gã đàn ông ngoại xem, như một món hàng. Thậm chí có cả chục phụ nữ Việt bị chính người Việt dắt mối đi làm thuê bằng cách đẻ mướn cho người nước ngoài, không phải chỉ bằng phương pháp cấy ghép trong ống nghiệm – Một hình thức mang thai hộ bắt buộc hết sức vô nhân đạo, bị phát hiện năm 2010 tại tỉnh Nonthaburi – Thái Lan. Như vậy chẳng phải vô cớ mà tổng giám mục Ngô Quang Kiệt đã từng phải thốt lên: “Tôi nhục nhã khi mang hộ chiếu Việt Nam”
Nét mặt đau khổ của người bị mất cắp tại Hà Nội van xin kẻ cắp trả lại giấy tờ tùy thân
Mất cắp nhân tính: Ngày nay nếu không có việc cần thiết thì không mấy người lương thiện nào thich bước ra khỏi nhà mình. Vì ra khỏi cửa là có thể gặp cướp bóc, chém giết, hãm hiếp tràn lan, người ta sẵn sàng lao vào ẩu đả nhau, đâm chém, thậm chí dùng cả súng để hạ sát nhau, nguyên nhân xuất phát chỉ vì một va chạm nhỏ trong giao thông, mà một lời xin lỗi cho cả hai phía là đã quá đủ để làm hòa. Đến nỗi, không hiểu vì thiếu hiểu biết hay căm ghét cuộc đời nghèo túng của mình mà muốn trả thù đời, một số người trồng rau chỉ vì một bó rau giá vài ngàn bạc, đã sẵn sàng sử dụng thuốc trừ sâu cực độc, sẵn sàng phun các loại hóa chất, và cả dầu nhớt vào rau trước ngày thu hoạch, rồi vô tư đem bán…
Mất cắp văn hóa: Người nước ngoài đến Việt Nam không thể đoán được gạch lát nền các trung tâm sinh hoạt văn hóa công cộng như Cung văn hóa hữu nghị Việt – Xô, Nhà hát lớn ở Hà Nội, Sân khấu Lan Anh, Trống Đồng, Nhà hát kịch ở Sài Gòn làm bằng loại đá hoa nào. Kỳ thực nó được các nam thanh nữ tú dùng bã kẹo cao su “tô điểm” thành những hoa văn có một không hai. Rồi lễ hội hoa trở thành lễ hội cướp hoa, Đường phố, vườn hoa, công viên ở những nơi đông người, sau những ngày lễ và mỗi tối thứ bảy đều ngập ngụa rác thải. Chưa bao giờ người ta lại lo lắng cho nền văn hóa bị vong bản như ở Việt Nam hiện nay. Mọi thứ đều được đặt trên giá trị đồng tiền. Thanh thiếu niên càn quấy, tụ tập lập băng đảng đua xe, hút chích, thác loạn. Người ta quay cuồng, hối hả trong sự đảo điên, mà đích đến chỉ là vật chất, tiền bạc và nhục dục…
Mất cắp giáo dục: Chưa bao giờ và có lẽ là không có nơi nào trên thế giới xảy ra quá nhiều những chuyện tày trời về tha hóa, mất đạo đức trong ngành Giáo dục và quan hệ thầy trò như ở Việt Nam: Thầy giáo cưỡng dâm học sinh, đưa học sinh vào con đường bán dâm cho các đại gia cán bộ nhà nước, học sinh chém cô giáo vì bị cho điểm kém, thầy cô say sưa móc túi phụ huynh học sinh trong “dịch vụ” học thêm dạy thêm. Rồi chuyện chạy lớp chạy trường, nạn bằng cấp giả mạo, bằng cấp thật kiến thức giả, Bộ giáo dục loay hoay hàng chục năm trời vẫn không thể cho ra đời, dù chỉ một bộ sách giáo khoa tiểu học cho hoàn chỉnh (chưa dám nói đến các cấp cao hơn), thôi thì đủ thứ chuyện ngang tai trái mắt vô phạm trong ngành Giáo dục…
Mất cắp sự công bằng: Công bằng không có nghĩa là cào bằng, nó chỉ mang tính tương đối. Nhưng chưa bao giờ nó lại thể hiện việc bị mất cắp rõ rệt như hiện nay. Câu nói “con vua thì lại làm vua” chẳng có sai. Nếu là con cái một quan chức cấp huyện trở lên đến trung ương, hay từ cỡ giám đốc chẳng hạn, thì chắc chắn người đó sẽ có cơ hội vào học tại các trường có đầu ra “ngon ăn”, tức là dễ kiếm việc làm, lương cao, có việc ở thành thị. Cao hơn thì sẽ được đi du học nước ngoài bằng tiền tham nhũng, hoặc bằng tiền học phí công khai do nhà nước chi trả. Chưa bao giờ lũ con ông cháu cha lại ngông nghênh hợm hĩnh, cao ngạo và trác táng như hiện nay. Người ngay thẳng, chống tiêu cực, thì bị trù dập trả thù dã man và hèn hạ. Hệ thống công quyền đang tự tạo ra những mối quan hệ giữa các cá nhân nắm quyền ở mọi cấp, bằng một sợi dây xích nhằng nhịt, kết nối bởi tiền – Quyền, giống như một băng đảng xã hội đen. Một sự đảo lộn trật tự đến chóng mặt, quay cuồng…
Mất cắp quyền sống: Một con người sẽ chỉ là một con vật nửa người khi bị tước quyền sống, quyền tự do. Bởi vậy nhân loại mới đặt vấn đề Nhân quyền lên hàng đầu trong các quyền sống của con người. Nhưng ngày nay chuyện đó là chuyện xa sỉ ở Việt Nam. Anh muốn chỉ trích ai cũng được, lên án ai cũng được, nhưng trừ chính quyền ra. Nếu vi phạm điều này thì ngay lập tức có “hai chiếc Còng”, đó là điều 88 Bộ luật hình sự sẽ “bập” vào tay anh. Anh có đất đai, nhà cửa nhưng không được trao đổi, mua bán vì rơi vào một dự án treo. Anh có nhà nhưng không được sửa chữa vì đây là phố cổ, làm gì cũng phải cần được nhà nước cho phép vv và vv… Tóm lại con người của anh chỉ thuộc về anh một phần, còn lại thì thuộc quyền của Đảng, của nhà nước, anh có quyền sở hữu thân thể nhưng không có quyền sở hữu hành vi chính đáng của mình…
Mất cắp lòng tin: Hệ lụy và là kết quả của mọi sự mất cắp, đó là mất lòng tin. Lòng tin là cái mà người ta thường phải mất rất nhiều thời gian để xây dựng nên, nhưng nó lại rất dễ bị mất đi, vì chỉ cần “một sự bất tín” là “vạn sự bất tin” ngay. Trước đây người dân tin vào Đảng, vào bác Hồ, vì được nghe tuyên truyền là “Bác và Đảng sống cho dân cho nước”. Nhưng rút cục, bác Hồ cũng là người dối trá, tự viết sách ca ngượi bản thân mình (Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch -
Trần Dân Tiên), bác cũng có vợ, thậm chí còn có tới hai, ba vợ (Tăng Tuyết Minh, Nông Thị Xuân…). Mà trái khoáy ở chỗ: Vợ Bác cũng không nhận, con Bác cũng chẳng dám công khai.
Đối với ĐCSVN thì ngày nay các “quan” Đảng từ cấp xã phường đến trung ương, họ đều là những người giàu có hơn hẳn người dân lao động. Một bộ phận lớn cán bộ nhà nước đã trở thành các đại gia, triệu phú, tỉ phú tiền Dollars Mỹ, nhờ vào tham nhũng, cướp bóc, bòn rút của dân, của quốc gia, bằng đủ mọi hình thức. Người dân mạnh ai nấy sống cho riêng mình, xã hội đã phân hóa rõ ràng tầng lớp bị trị và kẻ thống trị. Nhà nước sợ nhân dân nổi loạn chống chính quyền, nhân dân sợ nhà nước lừa dối, đàn áp. Vậy còn ai tin ai?
Lý do thứ 11: Hiện nay ĐCSVN đã mất thực quyền lãnh đạo đất nước. Họ chỉ còn là một dạng “ốc mượn hồn”.
Trước những năm 1990 ĐCSVN lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của nhà nước, bao trùm lên cả Hành pháp, Tư pháp và Lập pháp. Tuy nhiên, điểm lại lịch sử, có thể rút ra nhận xét: Trong chiến tranh, trên vị trí cao nhất của chính trường, quyền lực tối cao của ĐCSVN đã làm tốt vai trò của nó trong thời chiến, bởi vì chiến tranh đòi hỏi sự tập trung quyền lực như thế mới có thể thành công. Chính sự tập trung quyền lực ấy là chìa khóa của sự thắng lợi, cho dù cái gọi là “thắng lợi” đó cũng chẳng để làm gì, và nó không có gì là vẻ vang khi họ “chiến thắng” chính đồng bào của mình!
Ốc Mượn Hồn đẹp thế, nhưng thực ra con ốc đã chết, chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong là con vật khác.
Tuy nhiên, kể từ khi cố gắng hội nhập nền kinh tế thị trường, ĐCSVN đã buộc phải trao quyền quyết đoán về kinh tế tài chính cho chính phủ. Một hiệu ứng dây chuyền đã trực tiếp tác động vào cơ chế điều hành các hoạt động kinh tài từ chính phủ đến tỉnh, huyện và xã. Trong khi trước đây, quân đội, công an, các cấp hành chính từ xã đến trung ương, vai trò của chính ủy hay bí thư đảng ủy là vai trò cao nhất. Những người đứng đầu tổ chức Đảng tại các đơn vị và địa phương có quyền quyết định hầu như tất cả, đặc biệt là thu chi tài chính.
Nhưng kể từ khoảng cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ trước, ĐCSVN buộc phải đẻ ra cơ chế kinh tế thị trường “theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Điều này lại nảy sinh nhu cầu độc lập tự quyết của khối chính quyền. Theo tác động dây chuyền, vì vậy đã có biến đổi lớn về vai trò lãnh đạo của khối quân sự và khối Đảng ngay cả trong các lực lượng võ trang.
Người xưa thường nói: Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Không phải ngẫu nhiên mà quyền lực trong bất kỳ xã hội nào đều có xu hướng tập trung vào tay các nhà quản lý kinh tài. Một khi ĐCSVN không thể quyết định được việc thu chi, các khoản đầu tư đều do chính phủ nắm trọn, thì quyền lực của họ cũng theo đó bay đi. Họ chỉ còn có thể sử dụng Quốc hội để quản lý. Nhưng Quốc hội vốn chỉ là cơ quan mang tính hình thức, nội dung vẫn do các cán bộ nhà nước từ cao đến thấp tham gia, cho nên Quốc hội có mà cũng như không. Như vậy chính cái cơ chế “định hướng” không giống ai là nguyên nhân quan trọng nhất, tước đi quyền lãnh đạo của ĐCSVN.
Một hiện tượng tâm lý đã ngấm ngầm diễn ra nhiều năm qua, đó là những người có thực tài, và có con mắt thực dụng, đã sử dụng chiếc áo đảng viên chỉ là thứ bề ngoài cho có đủ lệ bộ. Họ tìm cách nắm giữ những vị trí có thực quyền quyết định về tài chính trong cơ quan, đơn vị, từ dân sự đến quân sự. Nếu thử làm những cuộc điều tra tại bất kỳ một cơ quan hay đơn vị nào, người ta cũng dễ dàng nhận thấy: Nếu được cử đi đào tạo theo ngạch Đảng thì nhiều người không chịu đi, đương nhiên những người có năng lực yếu hơn sẽ được chọn cho có đủ số lượng. Như vậy dần dà, những người được đào tạo chuyên trách Đảng đã bổ xung cho đội ngũ đó nhiều những cá nhân yếu kém.
Người ta cứ ngỡ nằm mơ, khi thấy những chính khách cỡ ủy viên trung ương ĐCSVN như ông Nguyễn Văn Thành – bí thư thành ủy Hải Phòng – nói câu “Gu gờ chấm Tiên Lãng” trước ống kính báo chí và trước cử tọa hơn 500 người. Nhưng đó là sự thật về trình độ và “tầm” của cán bộ đảng chuyên trách thời nay. Họ được đào tạo từ phong trào Đoàn thanh niên, hoặc do sự đùn đẩy của tổ chức (cho nghỉ việc thì không nỡ nhưng giao việc thì lại không làm được) mà lên nắm những vị trí như vậy. Cho nên họ ngày một trở nên thụ động đến ngu dốt. Thử hỏi hiện nay một cán bộ chuyên trách Đảng làm việc bao nhiêu giờ một ngày? Tại cơ quan họ làm những gì, nếu không phải là đọc báo, xem ti vi và uống trà giết thời gian?
Trong cơ cấu chính trị hiện nay ở tầm quốc gia, người ta thấy ngay vai trò của thủ tướng hoàn toàn khuynh loát vị trí tổng bí thư. Đơn giản vì thủ tướng đang nắm quyền sinh quyền sát về kinh tế. Thủ tướng có quyền bãi nhiệm bổ nhiệm từ cấp lãnh đạo các bộ, đến các tỉnh, có quyền phong hàm tướng tá cho các cá nhân trong lực lượng võ trang (việc thông qua quốc hội chỉ là hình thức, vì 100% đề xuất của thủ tướng về nhân sự đều “được” quốc hội chấp nhận). Vì vậy quyền lực cao nhất vô tình đã rơi ra ngoài tầm với của ĐCSVN. Người ta cũng có thể thấy quyền bất khả xâm phạm của thủ tướng trong vụ tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ kiện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đồng thời người ta cũng thấy ông Dũng đã vượt quyền Quốc hội trong việc ký kết dự án khai thác Bauxite chỉ bằng thủ thuật lách luật đơn giản là xé nhỏ dự án để mức thẩm quyền ký duyệt không vượt quá 35 ngàn tỉ đồng cho mỗi dự án.
Mấu chốt vấn đề đã rõ, hiện nay vị trí lãnh đạo của ĐCSVN chỉ còn là hình thức, giống như con ốc mượn hồn mà thôi. Họ đã tự đánh mất thực quyền bởi tổ chức Đảng đã dung nạp quá nhiều những con người bất tài như Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Văn Thành. Đó là đơn cử ở cấp trung ương, còn ở cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh, chắc chắn sự yếu kém còn kinh khủng hơn nữa. Nhưng họ vẫn tồn tại vì hư danh và chỉ là bình phong cho những kẻ có thực quyền.
Kết luận: Chỉ có duy nhất một con đường – loại bỏ ĐCSVN ra khỏi đời sống chính trị xã hội.
Giải thể ĐCSVN – nói một cách hình tượng sát thực hơn là “giải tán ĐCSVN”- là mục tiêu rõ ràng và mang tính sống còn đối với toàn thể gần 90 triệu người Việt trong và ngoài nước. Đây chính là nút thắt của sợi dây oan khiên, bất công, đã trói buộc người dân Việt Nam gần 70 năm qua. Nhiều người cho rằng ĐCSVN chính là cú lừa chính trị lớn nhất trong lịch sử dân tộc, điều đó quả không sai. Nhân dân Việt Nam ngàn năm văn hiến, dũng cảm, anh hùng, bỗng tự trói tay, nhắm mắt, lầm lũi bước theo ĐCSVN một cách mù quáng và hoàn toàn vô thức bởi “mâm cỗ” tự do trên giấy mà ĐCSVN đã vẽ ra…
Nhưng vì cơ cấu “Đảng lãnh đạo” quái dị, cho nên ĐCSVN gắn liền với cơ chế quản lý nhà nước. Chính vì lý do này nên việc giải tán ĐCSVN chỉ có hai con đường: Hạ bệ bằng con đường nghị viện, thông qua tổng tuyển cử đa đảng, hoặc là bằng một cuộc cách mạng lật đổ. Nhưng cho dù bằng cách nào đi nữa thì việc giải tán ĐCSVN là điều cấp bách không thể chậm trễ.
Một thế mạnh về lý và pháp lý cho nhân dân Việt Nam khi họ đã quá chán ghét chế độ Cộng Sản, đó là ĐCSVN có một tử huyệt mà lâu nay những người đấu tranh chưa khai thác triệt để: Tuy ĐCSVN được hiến pháp (cũng do ĐCSVN lập ra) quy định họ “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” (Điều 4 -HP), nhưng trong Bộ luật hình sự của họ lại không quy định bất cứ điều khoản nào nhằm bảo vệ ĐCSVN bằng pháp luật. Chỉ có các điều khoản bảo vệ nhà nước (gồm Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp) mà thôi. Vì vậy đương nhiên là chống Đảng và lật đổ Đảng là không hề phạm pháp (xin xem thêm bài “Chống Đảng và lật đổ Đảng có phạm pháp hay không?“).
Qua 11 lý do và đồng thời cũng là nguyên nhân gây nên thảm trạng xã hội trải dài gần 70 năm qua, được điểm trong 11 phần trước của bài viết “Mười một lý do để thay đổi thể chế chính trị 1 đảng cầm quyền hiện nay ở Việt Nam”, mặc dù đó chưa phải là tất cả mọi lý do chủ quan và khách quan, nhưng đó cũng đồng thời chính là những nguyên nhân và thực trạng quan yếu nhất để thấy rằng: Lựa chọn hay là chết, không còn đường nào khác, người dân Việt Nam cần phải tiến hành một cuộc cách mạng thay đổi thể chế, thay đổi thể chế Cộng Sản lạc hậu cũ nát phản dân chủ hiện nay do ĐCSVN độc quyền lãnh đạo, bằng hành động cụ thể là giải tán ĐCSVN.
Không có lý do gì, khi người chủ đích thực của đất nước lại đi sợ hãi một nhúm người thiểu số trong trung ương ĐCSVN. Không có lý do gì, nhân dân Việt Nam lại mãi chấp nhận, khi ĐCSVN thực chất chỉ là đứa con sinh sau đẻ muộn và nay hoàn toàn côi cút, của Đảng Bôn Sê Vích lạc loài tận trời Âu. Không có lý do gì, khi cha đẻ và là cái nôi của ĐCS – thành trì của cái gọi là “Chủ Nghĩa Xã Hội”- đã tan rã, đã bị người dân Liên Xô lật đổ từ lâu, thì ĐCSVN (một thứ quái thai dị dạng theo voi hít bã mía) lại cứ mãi tồn tại…
Nguyên nhân của sự cam chịu nằm ở đâu? Đó chính là sự sợ hãi. Đúng, sự sợ hãi của người dân chính là một trong những lý do để ĐCSVN tồn tại đến tận ngày hôm nay. Mặc dù ĐCSVN chỉ còn là một dạng ốc mượn hồn, nhưng những kẻ có thực quyền trong trung ương ĐCSVN lại đang sử dụng tấm bình phong ấy làm lá chắn an toàn bảo vệ cho chiếc ghế quyền lực, hòng vơ vét thật nhiều của cải làm giàu cho riêng mình. Những kẻ đó đang nắm sức mạnh tuyệt đối về vũ lực là quân đội và công an. Không những thế, hệ thống tư pháp bù nhìn – công cụ đàn áp núp danh pháp lý – cũng đang thuộc quyền kiểm soát của họ.
Đến giờ phút này ĐCSVN đã lộ rõ là một tổ chức chính trị lạc loài, bịp bơm, bán nước, dối trá, tham nhũng, tàn bạo và phản dân chủ. Họ không có cách gì để che đậy bản chất xấu xa nữa, và có thể họ cũng chẳng thèm quan tâm đến danh dự (vì họ làm gì có danh dự). Ngày nay ĐCSVN hiện nguyên hình là một tổ chức cầm quyền kiểu Phong kiến: Gia đình trị, dùng bạo lực trấn áp, biến người dân thành con sâu cái kiến, thành công cụ sai khiến trong tay họ. Nhưng lịch sử đã chứng minh: Hàng loạt những triều đại Phong kiến tàn bạo, sẵn sàng tru di tam tộc, cửu tộc những người chống đối, rốt cuộc cũng vẫn bị lật đổ.
Trong những thời khắc nhạy cảm như hiện nay, đôi khi “khai hỏa” cho sự sụp đổ của “triều đại” do ĐCSVN cầm quyền lại chính là người Cộng Sản, là các đảng viên ĐCSVN. Họ có thể lật đổ nhau vì nhiều lý do, và có thể bằng nhiều con đường. Đó chính là những yếu tố nội bộ bất ngờ từng xảy ra hết sức chóng vánh trong nhiều triều đại Phong kiến. Điều gì đã làm nên những cuộc lật đổ đó trong lịch sử? Rất dễ hiểu, đó chính là tham vọng quyền lực và ma lực của đồng tiền.
Thời xưa toàn bộ nhà nước bị thâu tóm trong một dòng họ, một huyết thống, mà đã như vậy. Ngày nay dù cố gắng đến mấy thì các quan ĐCSVN cũng không thể nhồi nhét hết gia đình họ vào bộ máy nhà nước. Vậy thì mối quan hệ giữa các cán bộ đảng viên ĐCSVN đương quyền chỉ là quan hệ vật chất thuần túy. Quan hệ này rất mong manh, vì “trâu buộc” bao giờ cũng ghét “trâu ăn”. Ngay như vị trí được coi là có quyền lực khuynh loát như thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện nay, cũng đang tiềm ẩn nhiều kẻ thù. Kẻ thù có thể bất ngờ lộ diện từ chính những thuộc cấp thân tín nhất của ông Dũng, vì tham vọng quyền lực và sức hút của những món lợi khổng lồ…
Nhưng một bộ phận không nhỏ khác trong nội bộ ĐCSVN cũng có thể khơi mào cho những cuộc nổi dậy, đó chính là những đảng viên ĐCSVN lâu năm, những đảng viên trí thức bị thất sủng, không được trọng dụng, hay vì cơ chế và sự xuống cấp của văn hóa mà vô tình họ bị đẩy ra bên lề cuộc sống (ví dụ các nhà văn, nhà thơ, thậm chí là cả nhà báo, nhà nghiên cứu khoa học, nhà nghiên cứu xã hội vv…). Những thành phần này mới chính là những người không biết sợ, vì họ quá hiểu bản chất cũng như thế yếu của ĐCSVN. Thậm chí nhiều cán bộ cao cấp của ĐCSVN hiện nay đã từng là học trò hoặc cấp dưới của những thành phần trí thức vừa kể. Mặt khác, họ không có gì, hoặc rất ít những thứ để mất. Đó cũng chính là động cơ gián tiếp thôi thúc họ hành động.
Ngày cáo chung của ĐCSVN đang đến, đó là quy luật tất yếu của lịch sử: Những gì không phù hợp và đi ngược lai trào lưu phát triển phải bị loại bỏ!
Không có lý do gì để người ta cứ dài cổ nai lưng cho một lũ cường hào ác bá chễm chệ ăn trên ngồi chốc trên đầu trên cổ mình!
Không có lý do gì để những người có học, có hiểu biết, có nhận thức và trọng danh dự, lại cho phép những tên quan lại ngu ngốc, dốt nát, điều khiển mình!
Không có lý do gì một đất nước văn hiến ngàn năm lại để cho những kẻ ít học nhưng nhiều thủ đoạn cầm quyền!
Không có lý do gì mà gần 90 triệu người dân lại chịu bó tay với một nhóm đặc quyền đặc lợi trong ĐCSVN. Phải thay đổi thôi! Dẫu muộn vẫn còn hơn không!
Chắc chắn nhân dân Việt Nam sẽ biết chọn đúng lúc để quyết định ngày loại bỏ con ốc mượn hồn mang danh ĐCSVN ra khỏi đời sống chính trị xã hội. Không ai luyến tiếc, khi loại bỏ một cái vỏ ốc vô giá trị cả!
Lê Nguyên Hồng
Theo: danluan
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét