LCST xin giới thiệu bài viết về sự phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Điều kiện tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là yếu tố tư duy của mỗi quốc gia và dân tộc đó. Xin mời quý bạn cùng đọc thêm bài viết của tác giả Minh Văn.
Thế sự trong thiên hạ, có những quốc gia giàu có văn minh, nhưng cũng có những quốc gia đói nghèo và lạc hậu. Nhìn suốt chiều dài lịch sử, thì có nhiều yếu tố để làm nên sự phát triển. Vùng đất nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên dồi dào thì có thể sớm trở nên hùng mạnh. Đó là yếu tố sơ khai cần và đủ cho một vùng đất, một dân tộc vươn lên từ nội lực của mình. Nhưng lịch sử cũng đã chứng minh, sự phát triển của một dân tộc không phụ thuộc vào những yếu tố đó, điều quan trọng là cách thức tư duy của họ.
Nhiều quốc gia có điều kiện tự nhiên ưu đãi, tài nguyên dồi dào (Việt Nam, Miến Điện là những điển hình) nhưng lại đói nghèo và lạc hậu. Ngược lại, tuy không có nhiều tài nguyên và môi trường tự nhiên thuận lợi, nhưng có những quốc gia lại phát triển rực rỡ (Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn).
Lịch sử nhân loại, những quốc gia phát triển sớm sẽ trở nên hùng mạnh, để rồi thống trị các nước khác. Các quốc gia nghèo và lạc hậu vì thế mà trở thành nô lệ trong suốt hàng ngàn năm. Người ta nói rằng, có tư duy của kẻ thống trị và tư duy của kẻ bị trị. Tư duy của kẻ bị trị chính là tư duy nô lệ.
Tư duy làm nên vị thế và tầm vóc của một quốc gia, quyết định sự văn minh hay lạc hậu.
Theo quan điểm triết học, tư duy là chỉ những hoạt động của tinh thần. Những hoạt động đó giúp người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất. Từ đó mà giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự vật và có cách ứng xử tích cực với nó. Tư duy không có ở các loài thực vật, không có ở mỏm núi hay dòng sông. Loài người chúng ta tự hào là có được tư duy khoa học và phát triển nhất trong số các loài động vật.
Loài người đã chứng kiến sự tồn tại của chế độ Chiếm hữu Nô Lệ, đây là hình thái xã hội thứ hai sau Cộng sản nguyên thuỷ. Theo đó thì chế độ tồn tại dựa trên hai giai cấp chính là Nô lệ và Chủ nô. Người nô lệ thuộc sở hữu và điều khiển của giai cấp chủ nô, họ gần như không có quyền hạn gì, ngoài những nhu cầu tối thiểu như ăn mặc và chỗ ở. Suốt hàng ngàn năm như vậy mà sản sinh ra kiểu tư duy nô lệ. Đó là một kiểu tư duy phụ thuộc, sợ hãi và không tự tin vào bản thân mình, thứ tư duy được điều khiển từ kẻ khác. Lối tư duy nô lệ ăn sâu vào nhiều thế hệ, bất hạnh thay cho dân tộc nào có kiểu tư duy đó.
Tư duy nô lệ khiến con người không được tự chủ mà trở nên phụ thuộc, khiến cho dân tộc không thể tự cường. Như vậy là con người đã bị nô lệ về tư tưởng. Từ nô lệ tư tưởng sẽ dẫn đến nô lệ thân thể.
Đáng buồn thay, dân tộc Việt Nam đang có kiểu tư duy nô lệ đó. Người dân Việt Nam nô lệ đảng Cộng Sản, đảng Cộng sản nô lệ chủ nghĩa Mác – Lênin. Cái thứ chủ nghĩa ngoại lai và phi nhân đó đã bị đảng Cộng Sản nhồi sọ và ép buộc người dân hơn nửa thế kỷ nay. Vì vậy mà không còn là nguy cơ nữa, người dân Việt Nam đã thực sự đã trở thành những kẻ nô lệ ngay trên chính mảnh đất của tổ tiên mình. Họ không được nói và làm theo những gì mình suy nghĩ, mà phải theo chủ nghĩa Cộng Sản. Vì thế mà Việt Nam đã trở thành một dân tộc không có chính kiến, mọi hành động và suy nghĩ của họ đều bị cái chủ nghĩa kia điều khiển và chi phối.
Người Nông dân Việt Nam làm việc,
dưới sự giám sát của đảng Cộng Sản
Sự sợ hãi đã ăn mòn tư duy người dân bao thế hệ, phần thưởng cho những ai dám bảo vệ tự do tư tưởng là nhà tù và trường bắn. Lâu dần con người mất đi tính tự tôn và độc lập của mình. Đã có đảng Cộng Sản nghĩ và làm thay mọi điều. Đảng đề ra chính sách và đường lối, đảng chỉ đạo thực hiện, nhất nhất người dân phải làm theo. Con người Việt Nam trở thành một công cụ biết nói (nô lệ), suy nghĩ và hành động của họ đều do đảng chi phối. Trong tư duy của họ, Bác Hồ luôn vĩ đại, đảng Cộng Sản thì quang vinh. Họ ca ngợi Đảng – Bác như một thứ công thức bản năng. Đảng Cộng Sản nhồi sọ cho người dân rằng: Chủ nghĩa Cộng Sản là học thuyết duy nhất đúng và tiến bộ. Họ bắt toàn dân phải đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn (chủ nghĩa Cộng Sản).
Lâu rồi đến nỗi, người dân cho rằng những suy nghĩ chính đáng của mình là một tội lỗi, chỉ có Đảng Cộng sản là chân lý sáng soi. Và rồi không cần Đảng phải nói, họ tự nguyện mang dây xích để cho Đảng trói mình lại và dắt đi. Vậy là đã trở thành bản năng, bản năng đó do tư duy nô lệ quyết định.
Một lần tôi tình cờ đứng cạnh cái nơi cột dây xích chó (Nhà tôi có nuôi chó). Tự nhiên thấy chú chó nhà mình ngoan ngoãn từ đâu chạy lại cọ cọ vào người tôi, chân thì cào cào vào cái dây xích. Sau một lúc bối rối, tôi chợt ngớ người mà nhận ra rằng: Chú chó muốn tôi cột nó vào dây xích. Vì lâu nay nó chịu xích đã quen. Đây là một hành động bản năng của loài vật, những thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần đã được chấp nhận.
Tôi vuốt đầu chú chó cưng để khen ngợi nó, nhưng lòng thì quặn đau khi nghĩ về một thói quen tương tự. Đó là thói quen của người dân Việt Nam để cho đảng Cộng Sản xiềng xích và trói buộc. Thói quen đó do tư duy nô lệ quyết định. Thật đau lòng lắm thay!
Mấy chục năm cầm quyền, đảng Cộng Sản đã nô lệ hoá thành công dân tộc Việt Nam. Người dân vì thế mà cũng trở thành những nô lệ của thời đại mới. Mọi suy nghĩ và hành động của họ đều do Đảng Cộng Sản chi phối. Bản tính độc lập, tư suy sáng tạo của người Việt đã không còn. Tư duy mà người Việt mang trong mình hôm nay là thứ tư duy nô lệ. Người Việt Nam chúng ta đang nô lệ một thứ tư tưởng ngoại lai: Đó là chủ nghĩa Cộng Sản.
Được đăng bởi Minh Văn (Việt Nam) vào lúc 01:09
http://minhvanvietnam.blogspot.fr/2013/01/tu-duy-no-le.html#more
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét