Lê Kim-Song (Danlambao) - Với những động thái ngày càng hung hăng và có hệ
thống trên Biển Đông, Trung Quốc đang biểu lộ dã tâm biến Biển Đông thành ao nhà của
mình một cách trắng trợn bất chấp công luận và pháp luật quốc tế (Công Ước về Luật Biển của
Liên Hiệp Quốc (UNCLOS, 1982) và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên (DOC,
2002)). Vấn đề Biển Đông và hàng loạt những vấn đề khác trong quan hệ với Trung Quốc (kể cả
hai hiệp định trên đất liền (1999) và lãnh hải (2000), vấn đề bauxite Tây Nguyên và việc
cho Trung Quốc thuê hàng chục ngàn mẫu rừng đầu nguồn) đang đặt ra cho dân tộc Việt Nam
một đe dọa rất lớn đối với sự mất còn của đất nước chúng ta.
Đối với
tranh chấp Biển Đông về mặt đối ngoại, chính phủ Việt Nam lên án Trung Quốc
vi phạm chủ quyền lãnh hải của Việt
Nam và tìm kiếm sự hậu thuẫn của cộng đồng quốc tế nhưng về mặt đối nội, giới lãnh đạo Việt Nam đã
tỏ ra mâu thuẫn trong chính sách của mình.
Chính phủ
Việt Nam hay nói cho đúng hơn, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) cần
hiểu rằng cái vũ khí vạn năng để
chống ngoại xâm chính là tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam. Điều này đã được minh chứng một cách hùng
hồn qua lịch sử của đất nước. Bắt bớ, sách nhiễu những người dân đi biểu tình chống
Trung Quốc là chà đạp tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, là tự mình từ bỏ một thứ
vũ khí mà kẻ xâm lược e sợ. Đây là một chính sách đang tạo ra nhiều bất mãn trong xã
hội và đồng thời thể hiện một lập trường nhiều mâu thuẫn và không nhất quán trong việc chống
ngoại xâm.
Sự an
nguy của tổ quốc đang đặt ra nhu cầu dân chủ hóa đất nước để có thể vận dụng
sức mạnh tổng hợp của toàn dân
trong cuộc đối đầu với Trung Quốc - một hiểm họa thường trực đối với dân tộc Việt Nam.
Vào thập
niên cuối cùng của thế kỷ 20, khi nhân loại đã không còn luyến tiếc và quăng
vào sọt rác Chủ Nghĩa Cộng Sản, một
chủ nghĩa không tưởng cả về mặt lý thuyết và hiện thực, thì hiện nay ở đất nước chúng ta ĐCSVN vẫn còn cố
gắng vực dậy cái thây ma nhiều tội lỗi để biện minh cho độc quyền lãnh đạo đất nước của
họ. Cho đến giờ phút này, ĐCSVN vẫn cương quyết bám víu vào quyền lực, không chấp
nhận Tam Quyền Phân Lập (Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp) - một cơ chế điều hành xã
hội hữu hiệu đã được kiểm chứng bởi thực tiễn chính trị của hầu hết các quốc gia văn minh
và tiến bộ trên thế giới, và đồng thời tiếp tục từ khước quyền lựa chọn những người tài đức để
phục vụ đất nước của nhân dân Việt Nam.
Ở một đất
nước mà những người lãnh đạo thiếu hẳn sự can đảm để nhìn nhận trách nhiệm
của mình trong việc điều hành đất
nước (như từ sự vỡ nợ của Vinashin đến sự chồng chất nợ nần của Vinalines và sự làm ăn lỗ lã của nhiều tổng
công ty khác) thì sự cần thiết của dân chủ hóa và thực thi một chế độ tam quyền phân lập là một
nhu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Khi hàng trăm ngàn tỉ đồng tiền thuế của nhân dân bị
lãng phí bởi khả năng quản lý tồi tệ của những người được chính phủ Việt Nam bổ nhiệm thì
người đứng đầu chính phủ phải chịu trách nhiệm trực tiếp với nhân dân. Ở các nước
có một chế độ dân chủ thì không những ông Tổng Trưởng mà luôn cả ông Thủ Tướng chính phủ
củng phải từ chức!
Hệ thống
tập đoàn và tổng công ty của Việt Nam hiện nay coi trọng việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị (duy trì độc quyền
chính trị của ĐCSVN) hơn là nhiệm vụ kinh tế. Các tập đoàn và tổng công ty này được ưu đãi về mọi mặt trong
kinh doanh (từ ưu đãi về vốn đấu tư đến quyền sử dụng đất đai và các ưu đãi về thuế khóa
khác) nhưng vẫn làm ăn kém hiệu năng và hầu hết là lỗ lã. Tính trong sáng và khả năng
quy trách nhiệm (transparency and accountability) của hệ thống kinh doanh và hạch
toán là điều chưa bao giờ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh đối với các tổng công ty
và tập đoàn kinh doanh của nhà nước mặc dù đủ thứ quy định và chính sách đã được ban
hành. Trên nguyên tắc người đứng đầu các bộ liên hệ của chính phủ cần phải trả lời trước
nhân dân về những thất bại trong việc quản lý nền kinh tế và can đảm chấp nhận từ chức vì mình đã
không có khả năng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Nhưng điều này không dễ gì xảy ra
tại Việt Nam. Văn hóa từ chức chưa bao giờ được hiểu và thực hành khi đặc quyền đặc lợi
quá lớn. Do đó đây là một lý do khác cho việc thực hiện dân chủ hóa guồng máy điều hành
đất nước. ĐCSVN luôn viện cớ cần ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Không ai phủ
nhận điều này. Nhưng như luật gia Lê Hiếu Đằng nhận định: “Đấu tranh mà không phá vỡ sự ổn
định xã hội, đó là bài toán phải giải quyết, nhưng quyết không thể nhân danh ổn định mà
kìm hãm cuộc đấu tranh để xây dựng nền dân chủ” (http://www.boxitvn.net/bai/13488).
Và càng không thể nhân danh ổn định chính trị để duy trì một hệ thống ban phát đặc quyền đặc lợi
cho những người trung thành với Đảng và guồng máy kém hiệu năng như hiện nay bằng tiền
thuế của nhân dân.
Một trí
thức khác tại quốc nội, luật sư Nguyễn Văn Đài nhận định: “Bên trong, giặc
nội xâm là các tập đoàn tham
nhũng, các nhóm lợi ích đang ngày đêm tàn phá đất nước. Chúng liên kết với nhau vơ vét của cải, tham nhũng tiền
thuế của nhân dân, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, hủy hoại môi trường, hủy hoại và làm tha
hóa chuẩn mực đạo đức xã hội… Bên ngoài giặc bành trướng đang rình rập chờ cơ hội
để xâm chiếm biển đảo của Tổ quốc”
Trở lại
vấn đề đối sách với Trung Quốc, chúng ta không thể đối phó với mưu đồ Hán hóa
của Trung Quốc trong trường kỳ nếu
chúng ta không xây dựng được một nước Việt Nam giàu mạnh và văn minh. Điều này chỉ có thể thực hiện
được khi giới lãnh đạo của đất nước biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi vị kỷ
của cá nhân và đảng phái của mình. Điều này cũng chỉ có thể thực hiện được khi dân tộc Việt
Nam là một khối đại đoàn kết dân tộc, trong ngoài như một. Tinh thần đoàn kết này sẽ có tác
dụng răn đe đối với tất cả mọi âm mưu thôn tính đất nước của chúng ta.
Đất nước
Việt Nam là đất nước của toàn dân Việt Nam, không phải của riêng của
ĐCSVN. Mọi công dân Việt Nam đều có
quyền có tiếng nói vào việc điều hành quốc gia thông qua các dân biểu do chính họ bầu ra. Và điều này chỉ có
thể xảy ra khi có một chế độ dân chủ thực sự ở Việt Nam.
Khách
quan mà nói, một dân tộc tự tạo cho mình những phiền toái không cần thiết về
mặt chính trị và xã hội cũng như
những rào cản khác trên con đường phát triển sẽ luôn tụt hậu và không thể tránh khỏi lệ thuộc nặng nề vào ngoại
bang chưa nói đến ảnh hưởng của những di sản khách quan của lịch sử. Đây chính là hoàn
cảnh của đất nước chúng ta hôm nay.
Hãy noi
gương Miến Điện, một quốc gia láng giềng của Việt Nam. Các tướng lãnh của họ
đã giác ngộ và ý thức được tầm quan
trọng của việc dân chủ hóa đất nước của họ và hãy nhìn xem cộng đồng nhân loại đã đáp ứng như thế nào
đối với đất nước này! Những đất nước tôn trọng nhân quyền và tự do là những đất nước dễ
dàng hòa đồng vào cộng đồng quốc tế.
Từ những
nhận định nêu trên, chúng ta có thể tái khẳng định rằng chìa khóa để giải quyết
mọi vấn nạn của đất nước - kể cả
việc xây dựng sức mạnh chống ngoại xâm, chính là dân chủ hóa việc điều hành đất nước! Không thể tiếp tục tình
trạng Đảng cử Đảng bầu cực kỳ vô lý như hiện nay.
Dân chủ
hóa để việc vận hành nền kinh tế được tuân theo những quy luật của thị trường,
là để việc sung dụng tài nguyên
quốc gia được hợp lý và mang lại những hiệu quả kinh tế tối ưu cho xã hội. Dân chủ hóa để thực sự hòa hợp hòa
giải dân tộc. Hơn ba triệu người Việt tại hải ngoại sẽ không còn lý do gì để không tích cực
đóng góp vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Dân chủ hóa để hội nhập với trào lưu tiến
hóa của nhân loại và góp phần vào việc gìn giữ hòa bình trên thế giới. Và quan trọng hơn
hết trong giai đoạn lịch sử khó khăn của đất nước hiện nay, dân chủ hóa để bảo vệ sự tồn vong
của đất nước!
Dù ĐCSVN
muốn hay không muốn, dân chủ hóa là con đường phát triển tất yếu của dân
tộc Việt Nam và nhân
loại!
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét