Ngô Nhân
Dụng
-
Câu tựa
đề trên đây là ý kiến của một vị độc giả sau khi đọc bài trước trên mục này: “Ai
cũng biết Việt Nam đang bị Trung Quốc làm nhục, nhưng chống Trung Quốc bằng cách
nào?”
Ðó cũng
là ý kiến của Thái Úy Trần Nhật Hiệu, vào thế kỷ 13.
Năm 1257
Hốt Tất Liệt, sau khi xóa tan nước Ðại Lý, sai quân tấn công nước ta vì vua nhà
Trần không chịu qua Vân Nam khấu đầu quy phục. Ðạo quân Mông Cổ phá đổ hàng
phòng thủ đầu tiên do Trần Quốc Tuấn chỉ huy; rồi đánh bại đạo quân chính do
Trần Thái Tông trực tiếp lãnh đạo; tiến tới chiếm thành Thăng Long, “cướp phá,
giết tất cả nam phụ lão ấu ở trong thành,” như Trần Trọng Kim ghi trong Việt Nam
Sử Lược.
Triều đình chạy về Hưng Yên, Thái Tông hỏi ý kiến mọi người. Thái
Úy Trần Nhật Hiệu cầm sào viết xuống nước hai chữ: Nhập Tống (xin vào nước
Tống). Lúc đó Tống còn là tên gọi cả nước Trung Hoa; mặc dù vua quan nhà Tống
chỉ còn làm chủ một mẩu đất ở vùng Quảng Ðông, hai năm sau mới bị quân Mông Cổ
tiêu diệt. Nếu theo lời khuyên của Thái Úy Trần Nhật Hiệu thì vua nhà Trần đã
xin hàng. Nhưng Thái sư Trần Thủ Ðộ có ý kiến khác: “Ðầu tôi chưa rơi xuống đất
thì xin bệ hạ đừng lo.” Cuối cùng nước Việt Nam không bị nhục.
Vị độc
giả trên còn lý luận: “Chưa thấy ai nói đến phương thức chống Trung Quốc bành
trướng một cách có hiệu quả. Chỉ có những cuộc biểu tình ồn ào, không kết
quả.”
Năm 1285
chắc cũng có người nghĩ như vậy. Trước mối đe dọa quân Nguyên sang tấn công lần
thứ ba, Thái thượng hoàng Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông mời các vị già cả
trong nước vào họp ở điện Diên Hồng để tham khảo. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư viết:
“Các phụ lão đều nói ‘Ðánh,’ vạn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa
miệng.”
Ðiện Diên
Hồng có lẽ không đủ rộng để chứa đến một vạn người. Nhưng dù chỉ có hàng ngàn
thì không khí cuộc họp chắc cũng đủ “ồn ào,” náo nhiệt, “muôn người cùng hô một
tiếng, như bật ra từ một cửa miệng,” không khác gì trong các cuộc biểu tình
trước tòa đại sứ Trung Quốc gần đây. Những “phụ lão” thời nhà Trần chắc cũng chỉ
trên dưới 50 tuổi, còn quá trẻ so với những “cụ” Nguyễn Quang A đi biểu tình ở
Hà Nội, hay Hòa Thượng Thích Chí Thắng mới xuống đường ở Huế. Các phụ lão thời
đó chắc chỉ vào tuổi cho các cô Trịnh Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy gọi là chú thôi!
Nhưng cuộc “biểu tình” trong điện Diên Hồng đã có kết quả. Cuộc họp mặt hào hùng
đó cho thấy một cách “chống Trung Quốc bành trướng.” Phương thức duy nhất có
kiệu quả là: Toàn dân một lòng bảo vệ danh dự quốc gia. Nhờ thế, sau cùng nước
Việt Nam không bị quân Mông Cổ chiếm mất. Nếu vua và dân nhà Trần đều run sợ mà
chịu nhục thì có thể từ đó nước ta đã biến thành một tỉnh hay một quận của nước
Trung Hoa cho tới bây giờ, không khác gì tỉnh Vân Nam.
Vị độc
giả trên đây còn lo sợ: “Dùng quân sự không thể thắng Trung Quốc, Hải quân ta
quá yếu... Trung Quốc đã chế được tàu vũ trụ, Việt Nam ta (chỉ) tổ chức được
(thi) Hoa Hậu Thế Giới. Cán cân đã ngã ngũ. Xin đừng bàn vấn đề này như truyện
kiếm hiệp Kim Dung, chỉ nhục thêm.”
Không ai
muốn “nhục thêm,” nhưng phải hỏi: Nếu có hai còn đường phải chọn, một bên là im
lặng hèn nhát, bên kia là chống cự đến cùng, thì con đường nào nhục nhã hơn?
Không người Việt Nam nào muốn gây chiến tranh với Trung Quốc. Nhưng bị lấn ép
mãi mà không dám đối đầu thì chắn chắn nhục nhã. Mà trong tình thế hiện nay,
Trung Quốc không dám đánh Việt Nam, vì những quyền lợi thiết yếu của họ.
Vào đời
nhà Trần, cán cân lực lượng giữa nước ta và nhà Nguyên cũng chênh lệch không
khác gì với Trung Cộng bây giờ. Có thể nhà Trần còn yếu hơn nhiều vì cả trăm năm
người Việt không biết đến chiến tranh. Quân Mông Cổ thì vừa mới chinh phục tất
cả nước Trung Hoa sau khi làm cỏ suốt vùng Trung Á, sang đến Nga và Ðông Âu; đạo
quân bách chiến tới đâu tàn sát đó rồi đặt người mới cai trị. Dân số Việt Nam
lúc đó được mấy triệu và quân đội nhà Trần có được bao nhiêu người? Vua nhà
Nguyên sai một đạo quân trăm ngàn lính thiện chiến sang đánh, cuối cùng chỉ còn
20 ngàn tơi tả chạy về. Nhờ đâu nhà Trần giữ vững được bờ cõi nước ta? Vì toàn
dân trên dưới một lòng: Thà làm quỷ nước Nam! Chúng ta cũng đừng quên rằng các
vị vua nhà Trần đều là dòng dõi người Việt gốc Hoa, qua nhiều đời họ đã hóa
thành dân tộc Ðại Việt; nhưng khi cần chống ngoại xâm thì họ vẫn được toàn dân
ủng hộ.
Vị thế
của Trung Quốc bây giờ chắc chắn không mạnh bằng thời nhà Nguyên. Vào thế kỷ thứ
13, Trung Quốc chiếm địa vị bá chủ trong vùng Á Ðông, về chính trị, kinh tế, và
quân sự. Chưa có những nước Nhật Bản, Nam Hàn giầu mạnh, chưa có khối Ðông Nam Á
cùng lo lắng trước đế quốc Trung Hoa mới. Chưa có nước Nga đè nặng phía Bắc.
Cũng chưa hạm đội thứ bẩy của Mỹ và một ông tổng thống khẳng định vì quyền lợi
nước Mỹ sẽ duy trì sự có mặt ở Á Châu Thái Bình Dương.
Nhà
Nguyên cũng không cần tiền đầu tư ngoại quốc đổ vào, không lệ thuộc các tài
nguyên, nhiên liệu từ các nước Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ để phục hồi kinh tế,
không lo việc dân chúng đòi tự do dân chủ, không sợ bị cả thế giới ngưng giao
thương nếu có hành động hiếu chiến, xâm lăng.
Trung
Cộng bây giờ mang đầy những mối lo tâm phúc đó! Hải Quân Trung Cộng không dám
đánh chiếm đảo Ðiếu Ngư đang bị Nhật chiếm đóng; vì Bắc Kinh không muốn dân Nhật
Bản nổi giận yêu cầu chính phủ tái võ trang, lập lại quân đội. Tầu thuyền Trung
Cộng phải rút khỏi vùng biển tranh chấp với Philippines vì nếu có chiến tranh
thì các nước trong vùng sẽ phải cùng nhau xin liên kết với Mỹ chặt chẽ hơn. Bắc
Kinh cần giữ hòa bình trong vùng biển Ðông nước ta vì nếu con đường giao thông
qua đó bất an thì cả nền kinh tế Trung Quốc sẽ lo không có đủ nguyên liệu và
nhiên liệu để chạy bình thường. Chính Bắc Kinh sẽ lo tránh đụng độ nhiều hơn
nước ta, vì nếu thêm một trăm ngàn dân thất nghiệp thì chế độ cộng sản sẽ sụp
đổ!
Nhà
Nguyên có thể đem quân đánh Việt Nam vì vào thế kỷ 13 nước ta hoàn toàn cô lập.
Cũng giống như năm 1979 Trung Cộng đã “dạy một bài học” cho Lê Duẩn về tội phản
phúc vì Cộng Sản Việt Nam đang bị cả thế giới tẩy chay. Tình trạng thế giới ngày
nay hoàn toàn khác. Không nước nào lo bị cô lập nữa, mà Trung Quốc cũng không
còn địa vị độc quyền bá chủ nữa. Nước Mỹ, Châu Âu cũng như Ấn Ðộ, Nhật Bản, và
các nước Ðông Nam Á sẽ phản ứng mãnh liệt nếu Trung Cộng gây chiến với Việt Nam.
Họ sẽ ngăn cản đến cùng, vì quyền lợi của chính họ chứ chẳng cần họ phải thương
yêu gì nước mình! Ý nghĩ cho rằng Trung Cộng muốn làm gì thì làm, các nước nhỏ
chung quanh phải sợ sệt như giun như dế mới thật là hoang tưởng. Ðó mới là sống
trong “truyện kiếm hiệp Kim Dung!”
Nhưng vị
độc giả có lòng còn lo ngại, viết rằng nếu “Dùng chánh trị (chống lại Trung Cộng
thì sẽ) lệ thuộc Mỹ hoặc phương Tây.”
Ðó cũng
là một điều hoang tưởng. Thế giới bây giờ không ai còn phải lo bị lệ thuộc như
vậy, dù lệ thuộc Mỹ hay lệ thuộc Tàu, nếu tự mình biết khôn ngoan và quyết tâm
bảo vệ nền độc lập. Năm 1940, các nước Anh, nước Pháp đã nhờ quân Mỹ sang đánh
quân Ðức Quốc Xã, sau đó các nước này bị lệ thuộc nước Mỹ hay không? Nếu không
có Mỹ bảo vệ thì Nam Hàn và Ðài Loan đã biến mất từ lâu rồi, nhưng bây giờ ai
dám nói rằng các nước này lệ thuộc Mỹ? Nếu thân với Mỹ mà dân nước họ giầu có,
được sống trong dân chủ tự do được thì tại sao họ không kết thân? Trên thế giới
bây giờ không một nước nào lo phải lệ thuộc nước khác, vì tất cả các nước đều
tùy thuộc vào nhau trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Có ai bắt Singapore phải mở
cửa cho tầu chiến Mỹ vào bến tu bổ, có ai bắt họ phải ký hiệp ước tự do thương
mại với Mỹ hay không? Chẳng qua là vì Singapore thấy các hành động đó có lợi cho
dân họ!
Vị độc
giả nêu những ý kiến trên đây có thể vì tấm lòng lo cho đất nước thật. Nhưng các
ý kiến đó cũng là luận điệu để bào chữa cho thái độ khiếp nhược, sợ hãi một cách
vô lý trước các hành động gây hấn và lấn áp của Cộng Sản Trung Quốc. Ðó cũng là
luận điệu mà Bắc Kinh muốn người mình truyền cho nhau nghe. Ðể cho cả nước Việt
Nam chết nhát! Người Việt Nam không hèn nhát như vậy, ngay từ thời Hai Bà Trưng,
bà Triệu.
Không thể
chấp nhận những luận điệu hèn nhát, chưa chi đã lo nước Việt Nam không đủ sức
chống lại Trung Cộng. Những kẻ đưa ra các luận điệu đó chỉ làm trò “rung cây
nhát khỉ” để phục vụ Bắc Kinh và biện minh cho những thái độ khiếp nhược của họ.
Nếu mỗi lần Trung Cộng tấn công tầu đánh cá Việt Nam, bắt cóc các ngư dân nước
mình, thì một chính quyền Việt Nam biết trọng danh dự đã hành động trả đũa liền.
Có thể quyết định tống xuất một ngàn công nhân Trung Quốc làm việc không giấy
phép ở trong nước ta ngay sau khi “tầu lạ” đánh dân mình. Ðang có hàng chục ngàn
di dân lậu trong đám các công nhân Trung Quốc, một đêm là có thể tìm ra một ngàn
người dễ dàng. Trục xuất di dân lậu là một việc làm hợp pháp, hợp đạo lý, quốc
tế phải công nhận là đúng lẽ phải. Liệu Trung Cộng có dám vì thế mà đem quân
sang đánh nước ta hay không? Thế giới có ngồi im cho họ hành động ngang ngược
như vậy hay không? Dân Việt Nam đã hèn nhát từ bao giờ vậy?
Năm 1974
ông Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh Hải Quân Việt Nam chống cự đến cùng khi quân
Trung Cộng tiến đánh Hoàng Sa. Lúc đó ông tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chắc phải
biết rằng những người lính sắp ra trận sẽ phải chịu hy sinh. Dù biết như vậy, ở
địa vị người lãnh đạo một quốc gia, ai cũng phải ra lệnh tử chiến. Họ không thể
chỉ nghĩ đến kế an toàn cho mỗi người lính. Vì phải bảo toàn danh dự quốc gia,
vì còn phải nghĩ đến tổ tiên và con cháu.
Những
người lính Việt Nam bảo vệ thành phố Lạng Sơn năm 1979 có biết rằng họ sắp bỏ
mình trước biển người quân Trung Cộng hay không? Tại sao họ vẫn cầm súng chống
cự tới cùng? Thiếu Tá Ngụy Văn Thà khi cùng các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam chống
cự tới cùng đến lúc chỉ còn lưỡi lê trên đầu súng, họ có biết là họ sắp hy sinh
hay không? Tại sao họ vẫn bám lấy mảnh đất Hoàng Sa cho đến chết? Tất cả những
người lính Việt Nam, dù ở miền Nam hay miền Bắc, đều biết họ sẽ chết, nhưng chết
cho tổ quốc Việt Nam. Vì bổn phận với tiền nhân bao đời trước. Vì biết còn bao
nhiêu thế hệ con cháu đời sau. Người Việt Nam xưa nay không khiếp nhược.
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét