Mãi sau nhiều năm tháng sống hèn, sống nhục núp dưới 16 chữ vàng do TQ đấm vào mõm. Quốc hội VN đã cho ra " Luật Biển VN", đây là một nỗ lực đáng được nhân dân ngợi khen. Động lực nào đã thức đẩy QH "dám làm" việc nầy, trong khi trước đây VN chỉ dám gọi tàu xăm lược TQ bằng "tàu lạ", hỏi tức là đã trả lời, khởi đi từ lòng yêu nước của các thanh niên trẻ VN tại cầu Thê húc với khẩu hiệu "Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam", rồi đến sự cố "Ngàn Năm Thăng Long" với tinh thần "Mừng Thăng Long Ngàn Tuổi, Chống Hiểm Hoạ Bắc Triều" tại công viên Lý Thái Tổ, ngay lòng thủ đô Hà Nội, và hàng loạt những cuộc biểu tình chống TQ năm 2011 đến nay. Những sự việc nầy đã nói lên tình tự yêu nước của dân tộc Việt Nam, ĐCSVN đã không thể đứng ngoài mà phải nhập dòng với dân tộc để tránh bị dân tộc loại bỏ vì hèn với giặc ác với dân. LCST.
TT - Trả lời Cổng thông tin điện tử Chính phủ ngày 25-6, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định việc thông qua Luật biển Việt Nam là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo.
Bộ trưởng cũng cho biết chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được nêu tại một số quy định trong các văn bản luật đã có trước đây, như Luật biên giới quốc gia năm 2003, tiếp tục được thể hiện rõ trong Luật biển Việt Nam.
Lực lượng cảnh sát biển Vùng 2 diễn tập cứu hộ trên biển Đông -Ảnh: Nguyễn Bằng |
Việc Quốc hội thông qua Luật biển VN là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nước ta, phục vụ việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của VN.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định như vậy khi trả lời phỏng vấn Cổng thông tin điện tử Chính phủ nhân sự kiện ngày 21-6-2012 Quốc hội thông qua Luật biển VN.
* Bộ trưởng có thể cho biết khái quát về quá trình xây dựng và những nội dung chính trong Luật biển VN?
- Quá trình xây dựng Luật biển VN được bắt đầu từ năm 1998 và đã trải qua ba nhiệm kỳ Quốc hội các khóa X, XI, XII. Luật biển VN là một luật có nội dung rất lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng. Luật được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp, nghị quyết của Quốc hội về phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982, các tuyên bố của Chính phủ năm 1977 và 1982, tổng kết thực tiễn quản lý biển của nước ta, trên cơ sở Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 và các hiệp định về biển đã ký. Trong quá trình xây dựng Luật biển VN, ta cũng đã tham khảo thực tiễn của các nước và cũng cân nhắc lợi ích của ta, lợi ích của các bên liên quan ở biển Đông và lợi ích chung của khu vực.
* Thưa bộ trưởng, theo những quy định hiện hành, có nhiều bộ ngành có chức năng quản lý biển. Vậy Luật biển VN có quy định về chức năng nhiệm vụ quản lý biển của các bộ ngành?
- Quản lý nhà nước về biển là một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến chức năng nhiệm vụ của nhiều bộ ngành và địa phương trong cả nước. Hiện nay, phạm vi thẩm quyền cũng như cơ chế phối hợp của các bộ ngành, các lực lượng tham gia quản lý biển được quy định cụ thể trong các văn bản pháp quy liên quan và được đặt dưới sự điều hành thống nhất của Chính phủ.
Luật biển VN là một luật khung quy định các nguyên tắc lớn đối với các vấn đề liên quan đến biển nên không nêu cụ thể, chi tiết chức năng của từng bộ, ngành tham gia quản lý biển. Luật khẳng định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước. Các bộ ngành và địa phương thực hiện quản lý biển trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ông Phạm Bình Minh - Ảnh: P.L.
|
- Phù hợp với các quy định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982, Luật biển VN quy định rất rõ các vùng biển của VN, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. VN thực hiện chủ quyền đối với các vùng nội thủy và lãnh hải; thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa.
Chủ quyền của VN đối với các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã được nêu tại một số quy định trong các văn bản luật đã có trước đây, như Luật biên giới quốc gia năm 2003, tiếp tục được thể hiện rõ trong Luật biển VN.
Luật quy định rõ là mọi tổ chức, cá nhân phải tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của VN, tuân thủ các quy định của pháp luật VN khi hoạt động trong các vùng biển của ta. Mọi vi phạm các quy định pháp luật liên quan đến biển, đảo của VN đều bị xử lý theo pháp luật liên quan.
* Nước ta còn có một số bất đồng, tranh chấp về biển, đảo với một số nước láng giềng. Trong Luật biển VN, vấn đề này được đề cập như thế nào, thưa bộ trưởng?
- Luật biển VN quy định rõ Nhà nước VN chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Đây là chủ trương nhất quán của Nhà nước ta. Chúng ta đã, đang và sẽ kiên trì thực hiện chủ trương này. Trên thực tế, đến nay chúng ta đã giải quyết được một số tranh chấp với các nước láng giềng. Ví dụ năm 1997, ta cùng Thái Lan phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; năm 2000 cùng Trung Quốc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ; năm 2003 cùng Indonesia phân định thềm lục địa...
Tôi cho rằng với việc Quốc hội nước ta thông qua Luật biển VN, chúng ta đã chuyển một thông điệp quan trọng đến cộng đồng quốc tế. Đó là: VN là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982, phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Luật Biển VN gồm bảy chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.
Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.
Chương 2 quy định về vùng biển VN với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo...
Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển VN, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến VN, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển VN, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài...
Chương 4 dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.
Chương 6 quy định về xử lý vi phạm, bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý vi phạm.
Chương cuối quy định về điều khoản thi hành.
|
Posted in: Biển Đông,Đảng và Nhà Nước
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét