Trần Huỳnh Duy
Thức
-
Chúng ta
thường nghe nói pháp quyền là quyền thượng tôn pháp luật – Pháp luật đứng trên
hết mọi đối tượng – và áp dụng cho mọi người như nhau. Cách hiểu này còn được
gọi là pháp trị (rule by law) tức cai trị bằng pháp luật. Tuy nhiên điều gì sẽ
xảy ra khi Pháp luật lại bảo vệ một đối tượng nào đó trên hết, chẳng hạn một tư
tưởng chủ nghĩa, một chế độ chính trị, một đảng phái trị nào đó, hay thậm chí là
một con người nào đó?
Câu trả lời đã quá rõ ràng: điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên chế (hay chuyên chính theo cách nói của những người Cộng sản) mà ở đó Pháp luật được sử dụng làm công cụ cai trị của giới cầm quyền để duy trì quyền lực và quyền lợi cho mình.
Đây chính là tính chất chính trị căn bản và đã trở thành bản chất của các
chế độ phong kiến hay còn gọi là quân chủ chuyên chế mà đối tượng bảo vệ trên
hết của nó là vua. Xâm phạm vua là tội đại nghịch, là tội đứng đầu trong luật
hình sự và có mức hình phạt khủng khiếp nhất. Tương tự như vậy, ở các chế độ
đảng trị thì bảo vệ đảng cũng là trên hết.Câu trả lời đã quá rõ ràng: điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên chế (hay chuyên chính theo cách nói của những người Cộng sản) mà ở đó Pháp luật được sử dụng làm công cụ cai trị của giới cầm quyền để duy trì quyền lực và quyền lợi cho mình.
Các chế
độ độc tài chuyên chế đang tồn tại ngày nay cũng với một bản chất như vậy, chỉ
có khác về hình thức, chẳng hạn như vua bây giờ có thể là một (dù với một danh
xưng khác), có thể là nhiều ví dụ như một nhóm chóp bu của một đảng hoặc là một
chế độ chính trị gắn với một tư tưởng chủ nghĩa nào đó. Việc xâm phạm đến các
chế độ và chủ nghĩa đó luôn bị quy là tội nặng nhất đứng đầu trong các tội hình
sự. Ở Việt Nam các tội gọi là xâm phạm an ninh quốc gia được dành hẳn một chương
đầu tiên của phần tội phạm của bộ luật hình sự, hầu hết có khung hình phạt cao
nhất có án tử hình, như điều 79 – lật đổ chính quyền nhân dân, điều 88 – tuyên
truyền chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng cách như vậy
và theo tinh thần pháp trị – thượng tôn pháp luật, giới cầm quyền ở các chế độ
như thế luôn dễ dàng đứng trên pháp luật, dùng pháp luật để bảo vệ đặc quyền
riêng cho mình trên danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia. Sự thượng tôn pháp luật
kết cục là để bảo vệ tối thượng cho một nhóm đối tượng nhỏ hẹp nào đó dưới rất
nhiều các danh nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực ra chế độ
phong kiến chưa hoàn toàn chấm dứt, chỉ có cái tên của nó là không còn hợp thời
nữa nên phải dùng đến những cái tên hình thức khác nhau để che đậy bản chất
không thay đổi của nó.
Như vậy,
sự thượng tôn pháp luật là không đủ để đảm bảo cho một chế độ dân chủ. Đây chỉ
là ý nghĩa thứ cấp của pháp quyền (rule of law). Ý nghĩa sơ cấp của pháp quyền
là sự bảo vệ các quyền của con người bằng pháp luật (hiến pháp và luật), kết hợp
với ý nghĩa thứ cấp như trên sẽ dẫn đến kết quả là quyền con người sẽ được bảo
vệ ở vị trí cao nhất của pháp luật. Và do đó Nhà nước Pháp quyền (The rule of
law) là một nhà nước mà bất chấp hình thức của nó là gì đi nữa thì pháp luật của
nó phải bảo vệ các quyền của con người trên hết mọi đối tượng khác một
cách bình đẳng cho bất kỳ công dân nào của nó mà không được có bất kỳ sự
phân biệt nào về các thuộc tính sinh học, địa vị xã hội lẫn quan điểm chính trị
của họ, cho dù đó là những cái thuộc về thiểu số rất nhỏ. Nói cách khác, nhà
nước pháp quyền là một sự ủy trị để đại diện cho từng công dân một để bảo vệ
quyền con người của anh ta một cách bình đẳng với tất cả mọi công dân khác mà
không có bất kỳ đối tượng nào khác được đặt lên trên các quyền đó của anh ta. Sự
bảo vệ ở đây phải bao gồm sự đảm bảo để anh ta sử dụng được đầy đủ các quyền con
người của mình, ngăn ngừa người khác xâm phạm các quyền này của anh ta và ngăn
ngừa anh ta xâm phạm các quyền này của người khác. Cho dù anh ta có bỏ phiếu cho
nhà nước đó hay không thì nó vẫn phải bảo vệ cho anh ta như vậy, ngay cả lúc anh
ta bị phạm pháp đi nữa.
QUYỀN
CON NGƯỜI TỐI THƯỢNG
Một nhà
nước làm được như vậy thì tất yếu nó là một nhà nước dân chủ mà không cần phải
gắn thêm thuộc tính “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ” làm chi trừ khi
chỉ sử dụng nó như là một khẩu hiệu. Dân chủ là một tính chất của xã hội được
hình thành nên từ sự vận động trong thực tế cuộc sống của con người chứ không
phải là một hình thức xã hội, một phương thức cai trị hoặc một mô hình chính
trị. Do vậy chúng ta hay thấy rằng có rất nhiều nước mang những cái tên dân chủ
hay nhân dân thường lại là những nước phản dân chủ nhất, áp đặt nhân dân chuyên
chế nhất. Một xã hội sẽ có tính chất dân chủ chỉ khi nào người dân ở đó thực sự
làm chủ chính mình – tức có thể sử dụng đầy đủ quyền con người của mình mà không
cần xin phép ai và cũng không ai có quyền cho phép họ. Muốn làm được như vậy thì
phải tuân thủ các nguyên tắc “Quyền con người trong nhà nước pháp quyền” như nêu
trên. Nguyên tắc này chính là một quy luật tự nhiên khách quan mà loài người đã
trải qua cả ngàn năm đúc kết thực chứng để hiểu rõ. Và nhờ tuân theo quy luật
này mà rất nhiều dân tộc đã xây dựng được một xã hội dân chủ cho họ dưới rất
nhiều các hình thức nhà nước khác nhau như Quân chủ lập hiến, Cộng hòa đại nghị,
Cộng hòa tổng thống … cho dù nguyên thủ quốc gia là vua hay thủ tướng hay tổng
thống thì vẫn phải ở dưới quyền con người được bảo vệ trên hết và bình đẳng ở
các quốc gia đó.
Do vậy
việc xây dựng dân chủ bằng các mô hình đều dẫn đến sai lầm vì dân chủ là tính
chất được hình thành từ dưới lên theo quy luật khách quan nói trên chứ không thể
bằng sự áp đặt từ trên xuống theo mô hình chủ quan. Nói cách khác, bản chất của
dân chủ – tức thành tố căn cơ tạo nên dân chủ – là quyền con người phải được bảo
vệ trên hết và bình đẳng để tất cả người dân có thể tự tin sử dụng chúng trọn
vẹn. Bảo đảm được thành tố này – tức tôn trọng quy luật Quyền con người trong
Nhà nước pháp quyền – thì chắc chắn sẽ tạo ra một nền dân chủ. Nền dân chủ đó có
thể có những hình thái, mô hình khác nhau tùy thuộc vào ý muốn của đa số nhân
dân. Chẳn hạn như, vì đa số người dân Anh thích có vua/nữ hoàng nên họ bỏ phiếu
để duy trì hình thái quân chủ lập hiến để trao quyền tối cao của họ cho người
này nhằm kiểm soát các đảng phái chính trị làm theo ý chí của họ và chống sự độc
tài, và họ không cho phép người này được tham gia các hoạt động cầm quyền, điều
hành đất nước để người đó không thể lạm quyền. Khi nào họ thấy mô hình này không
phù hợp nữa thì họ sẽ bỏ phiếu thay đổi nó vì quyền của họ luôn đứng trên hết,
trên cả mô hình đó. Ý muốn của nhân dân là mệnh lệnh bắt buộc.
QUY
LUẬT ĐỂ PHÁT TRIỂN
Ý muốn đó
có thể khác nhau bởi các thuộc tính sinh học, địa vị xã hội và quan điểm chính
trị của những người khác nhau. Nhưng tất cả họ đều có một cái giống nhau và bình
đẳng tuyệt đối là quyền con người của họ không hề khác nhau. Những ai có nổ lực
vượt bậc thì sẽ đề ra được những mô hình, phương thức tốt nhất, phù hợp nhất với
những hoàn cảnh, tình hình khác nhau thì sẽ thuyết phục được đa số ủng hộ để bỏ
phiếu trao quyền cho họ áp dụng mô hình, phương thức đó cho đất nước. Do vậy
những cái này liên tục thay đổi theo thời gian và bị tác động bởi bối cảnh lịch
sử trong lúc sự bảo vệ quyền con người trên hết và bình đẳng là không được thay
đổi để làm một nền tảng vững chắc – tức nền dân chủ – tạo sự ổn định cho những
sự thay đổi liên tục nói trên. Vi phạm sự bảo vệ này là phản dân chủ, là không
tuân theo quy luật khách quan nên không bao giờ có được sự phát triển bền vững,
tạo ra những điều tốt đẹp. Sự phát triển cũng phải tuân theo quy luật phát triển
tự nhiên thì mới luôn đạt được trạng thái cân bằng nên không bị đổ vỡ.
Nguyên
tắc quyền con người trong nhà nước pháp quyền cũng chính là quy luật phát triển
tự nhiên như thế. Hình vẽ dưới đây mô tả điều này :
Người
Trung Hoa cổ có câu ”dĩ bất biến ứng vạn biến” rất hay. Phải dựa vào những cái
không thay đổi để ứng phó với những cái liên tục thay đổi, nếu không thì mọi sự
phát triển sẽ không có nền, mất gốc và do vậy sẽ sụp đổ. Mà đối với con người
thì chỉ có quy luật của vũ trụ (tức vũ trụ quan) mới là bất biến không thể bị
thay đổi theo ý muốn của con người được. Còn những quy tắc của con người (tức
nhân sinh quan) thì luôn có thể thay đổi bởi chính họ hoặc người khác. Lịch sử
nhân loại đã chứng minh rằng khi loài người phát hiện và hiểu được các quy luật
khách quan của vũ trụ thì xã hội của họ sẽ phát triển vượt bậc. Điển hình là
Newton phát hiện luật Vạn vật hấp dẫn, Adam Smith phát hiện quy luật Bàn tay vô
hình (tức kinh thế thị trường ngày nay), Albert Einsteins phát hiện thuyết Tương
đối . Những phát hiện này đã khai sáng cho nhân loại hiểu rõ những quy luật của
vũ trụ đã tồn tại từ thuở khai thiên lập địa. Từ đó thế giới đã phát triển nhanh
chóng cho đến ngày nay, tạo ra một sự thịnh vượng và văn minh vĩ đại.
Nhưng sự
phát triển của thế giới vật chất như trên sẽ không thể bền vững, tốt đẹp nếu
không dựa trên những quy luật về tinh thần tự nhiên của con người. Sự không tốt
đẹp của nó – đúng hơn là tồi tệ – mà loài người đã phải chịu đựng chính là những
nạn nô lệ chà đạp con người, những cuộc chiến để giành giật của cải và hơn thua
về ý thức hệ hủy diệt con người trải cả hàng nghìn năm lịch sử, hoặc dùng quyền
lực và lợi ích vật chất để khống chế tư tưởng con người mới nổi lên gần đây ở
các chế độ đảng trị. Thế giới chúng ta sẽ không thể phát triển tốt đẹp và hòa
bình nếu căn nguyên của các thảm họa trên không được nhìn nhận đúng để trừ khử
nó.
QUY
LUẬT ĐỂ CÔNG BẰNG
Các thảm
họa như trên đều xuất phát từ một nguồn gốc là quyền lực tuyệt đối của quốc gia
bị rơi vào tay của một người hoặc một nhóm người cầm quyền – chính là tình trạng
chuyên chế, hay nói cách khác chính là sự bất công trầm trọng – nên họ dễ dàng
gây ra những thảm họa đó vì lòng tham cá nhân. Do vậy nếu chúng ta làm cho thế
giới công bằng thì nhân loại sẽ tránh được những thảm họa tương tự. Có một thời,
vào lúc mà chủ nghĩa Cộng sản đang thịnh hành, người ta đã tin rằng có thể đạt
được sự công bằng bằng cách áp đặt tư tưởng giống nhau tuyệt đối cho con người
và cào bằng nhu cầu vật chất của họ. Nhưng học thuyết đó đã thất bại ê chề, đơn
giản vì nó không hợp với quy luật tự nhiên của con người – tư tưởng và nhu cầu
của con người không bao giờ có thể đồng nhất như nhau được. Và chính sự đa dạng
của những cái này làm cho xã hội loài người phát triển. Cưỡng bức để đồng nhất
những cái đó đã làm cho sắc màu của cuộc sống xám xịt và xã hội lạc hậu đến mức
nào thì chúng ta cũng đều đã chứng kiến.
Nhưng nếu
có một quy luật về tinh thần giúp đạt được công bằng thì phải tồn tại một thành
tố nào đó mà tính chất của nó đối với tất cả mọi người phải tuyệt đối giống nhau
bất chấp sự khác biệt về thuộc tính của họ như màu da, sắc tộc, xuất thân, địa
vị, tư tưởng, v.v… Tương tự như thành tố thời gian vậy: ai cũng có được 24 giờ
một ngày như nhau tuyệt đối bất kể họ sống ở đâu. Cho dù không quá phức tạp
nhưng phải mất mấy ngàn năm và phải sau khi đã trải qua thảm họa của Thế chiến
II thì nhân loại mới có thể thừa nhận rộng rãi rằng: Quyền con người là tuyệt
đối như nhau cho bất kì ai là con người đang sống bất kỳ đâu trên hành tinh này.
Đây chính là nguyên tắc phổ quát của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người
mà Liên hợp quốc đã long trọng tuyên bố vào năm 1948. Nguyên tắc phổ quát đó
cũng chính là quy luật của vũ trụ mà người ta không thể thay đổi được. Rõ ràng
là như vậy vì không ai có thể làm cho người khác tự nhiên không muốn mình có
quyền được sống, được tự do, được an toàn cá nhân để hạnh phúc. Dùng quyền lực
có thể áp đặt, tước đoạt các quyền đó của con người nhưng không thể làm cho họ
thôi khát khao có chúng.
Như vậy
Quyền con người chính là thành tố có tính chất bất biến và tuyệt đối bình đẳng
đối với mọi người. Và nếu đảm bảo tôn trọng thành tố này thì chúng ta sẽ có được
sự bình đẳng tuyệt đối cho từng người có được tất cả quyền con người hoàn toàn
giống nhau như ai cũng có 24 giờ/ngày vậy. Không ai có thể cho ai hoặc lấy đi
của ai các quyền và thời giờ của họ cả. Đến khi đó ai nỗ lực tốt, biết tận dụng
tốt hơn các quyền con người và thời giờ của mình thì sẽ có quyền sở hữu nhiều
thành quả hơn nên sẽ vượt trội hơn. Đây chính là sự bình đẳng cơ bản mà nó không
chỉ tạo ra động lực lành mạnh thúc đẩy con người nỗ lực vươn lên mà còn là một
cái nền không thể thiếu để kinh tế thị trường vận hành một cách đúng đắn: muốn
vươn lên phải cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu của người khác thay vì giành giật và
chà đạp. Và khi đó xã hội loài người sẽ phát triển nhanh chóng vì nhu cầu vật
chất lẫn tinh thần của họ liên tục được đáp ứng một cách tốt nhất. Quy luật bàn
tay vô hình sẽ tự nhiên điều tiết nhu cầu và việc đáp ứng nhu cầu để đạt được
một trạng thái cân bằng tối ưu. Tuy nhiên bàn tay vô hình không tự điều tiết
được ở một số lĩnh vực và tình huống, chẳng hạn: đơn giản thì có bảo đảm an toàn
thực phẩm phức tạp hơn là bảo vệ môi trường, hơn nữa là thuế và các chính sách
vĩ mô khác như an sinh, lợi ích cộng đồng, … cho nên phải cần bàn tay hữu hình –
chính là vai trò điều tiết của nhà nước. Mà khi sự bình đẳng tuyệt đối được đảm
bảo thì nhà nước lúc đó chính là nhà nước pháp quyền để bảo vệ quyền cho mỗi
người. Nhờ vậy nó sẽ điều tiết các vấn đề trên đạt đến trạng thái cân bằng quyền
lợi cho mọi người theo quan điểm của đa số. Trạng thái đó là sự bình đẳng phổ
biến mà sẽ thường xuyên biến đổi theo ý muốn thay đổi của con người, kéo xã hội
phát triển lên theo đà tiến bộ về văn hóa của con người, làm cho con người ngày
càng thịnh vượng hơn, văn minh hơn.
THỊNH
VƯỢNG HOẶC BẤT ỔN
Trên là
cách để chúng ta xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn nhờ vậy mà thịnh
vượng và văn minh hơn. Giá trị của cách này là ở chổ nó tạo ra một sự cân bằng
thực chất giữa mọi người để họ thực sự chấp nhận trạng thái bình đẳng phổ biến
vì họ đã có đủ quyền tự do để tranh đấu hoặc lựa chọn cho điều họ mong muốn. Chứ
không phải giá trị của nó nằm ở chổ đúng sai của các quan điểm chuẩn tắc được
lựa chọn. Ở đây không có đúng hoặc sai, chỉ có quan điểm nào thuyết phục được
càng nhiều người thì càng phù hợp cho bối cảnh từng giai đoạn. Không bao giờ có
chân lý tuyệt đối ở các quan điểm này. Mọi sự áp đặt quan điểm công bằng không
những đã chứa đựng mầm mống bất công mà còn tạo ra sự bất mãn mà ngay cả có dùng
quyền lực để ép buộc đi nữa thì cũng chỉ gây ra sự đè nén chứ không phải cân
bằng, sự chịu đựng chứ không phải chấp nhận. Do vậy nó luôn tạo ra sự bất ổn
triền miên rồi dẫn đến sụp đổ khi sự đè nén và chịu đựng đã tới hạn.
Tình
trạng bất ổn lâu nay ở đất nước ta có nguồn gốc như thế nên nếu chúng ta không
nhìn nhận và giải quyết vấn đề từ gốc thì mọi nỗ lực ổn định vĩ mô đều sẽ thất
bại, gây thêm tai họa. Nhưng nếu nhìn nhận đúng thì chúng ta không những nhanh
chóng ổn định mà còn sẽ tạo nên những thành tựu vượt bậc. Sự nhìn nhận đó sẽ
giúp chúng ta tránh được một sự sụp đổ mà hậu quả của nó sẽ tàn phá chúng ta
khủng khiếp trong nhiều năm. Sự nhìn đó sẽ giúp chúng ta có được một nền tảng
chính trị vững chắc để xây trên đó những thượng tầng kinh tế, xã hội, văn hóa
liên tục cao hơn mà vẫn ổn định, và có đầy đủ mọi quyền con người của mình như
bao dân tộc tiến bộ ở các quốc gia phát triển để ngày càng thịnh vượng và văn
minh. Nhờ vậy mà chúng ta hạnh phúc.
Sự nhìn
nhận đó lại rất đơn giản. Chỉ cần chúng ta tự tin sử dụng hết tất cả các quyền
mặc nhiên của mình theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người và đã được
hiến định đầy đủ thành các quyền công dân của nhân dân Việt nam tại Hiến pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam. Đó là những quyền con người của
chúng ta trong nhà nước pháp quyền của chúng ta. Sự TỰ TIN đó chắc chắn và nhanh
chóng sẽ tạo nên một nền DÂN CHỦ thực chất cho chúng ta mà ở đó quyền con người
thiêng liêng luôn ngự trị tối thượng để bất kỳ ai cũng có được sự bình đẳng
tuyệt đối về quyền của mình so với người khác. Nhờ nền dân chủ đó mà chúng ta sẽ
có được sự CÔNG BẰNG để xác lập các trạng thái bình đẳng phổ biến làm cân bằng –
tức hài hòa ý muốn của chúng ta. Nhờ vậy mà nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của
mọi người luôn được đáp ứng tốt nhất, làm chúng ta giàu có và văn hóa. Chỉ khi
đó Việt Nam ta mới THỊNH VƯỢNG và VĂN MINH được.
Và cũng
chỉ có như vậy thì quyền lực tuyệt đối của các quốc gia trên thế giới mới không
nằm trong tay của một nhóm nhỏ cầm quyền, giúp họ dùng nó để gây ra những thảm
họa vật chất lẫn tinh thần cho nhân loại. Đó là cách chúng ta thúc đẩy hòa bình
cho trái đất.
Khi chúng
ta tự tin sử dụng các quyền bất khả xâm phạm của mình thì sẽ buộc những người
cầm quyền ở bất cứ thời kỳ nào cũng tôn trọng nguyên tắc Quyền con người trong
nhà nước pháp quyền, cũng tức là tuân thủ quy luật phát triển khách quan. Đất
nước ta đang đối mặt với quá nhiều vấn đề, nhưng chỉ cần chúng ta tự tin như vậy
thì tất yếu chúng sẽ được giải quyết tốt đẹp theo quy luật đó.
Vì vậy
mục tiêu tối thượng của Phong trào con đường Việt nam là: “Quyền con người phải
được bảo vệ trên hết và bình đẳng tại Việt Nam “.
TRẦN
HUỲNH DUY THỨC
Người khởi xướng
0 Lời Bình:
Đăng nhận xét